Xem ngày trước
BẢN TIN TỔNG HỢP
Xem ngày kế tiếp

Ngày 22 tháng 04 năm 2017
CHÍNH SÁCH MỚI
TIÊU ĐIỂM
PHÁT NGÔN NÓNG
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
SAI PHẠM
MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
TRÁI KHOÁY
NHÌN RA THẾ GIỚI

CHÍNH SÁCH MỚI
Làm rõ phản ánh tình trạng khai thác khoáng sản trái phép ở Quảng Nam và Hà Tĩnh. Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 3670/VPCP-CN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình về việc kiểm tra, xử lý thông tin báo chí nêu tình trạng khai thác khoáng sản ở Quảng Nam và Hà Tĩnh.
Trước đó, ngày 8-4-2017, trên một số cơ quan báo chí phản ánh tình trạng khai thác vàng trái phép quy mô lớn lại xuất hiện ở mỏ vàng Bồng Miêu, trên địa bàn xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Các đối tượng ngang nhiên tàng trữ hàng tấn hóa chất độc hại ngay tại bãi vàng. Việc sử dụng khối lượng lớn hóa chất này để tuyển vàng khiến người dân lo ngại sẽ gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt.
Việc cấp phép khai thác khoáng sản ồ ạt nhiều năm qua gây ảnh hưởng xấu tới danh lam thắng cảnh núi Hồng, tỉnh Hà Tĩnh. Hàng loạt công ty chế biến đá vào khai thác khiến dãy núi bị nham nhở, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đặc biệt trong mùa mưa, bùn đất từ dãy núi Hồng trôi xuống làm ảnh hưởng đến sản xuất cũng như đi lại của người dân địa phương.
Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu, Bộ TN - MT chủ trì, phối hợp với UBND các tỉnh Quảng Nam và Hà Tĩnh kiểm tra, làm rõ những nội dung báo chí phản ánh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật (nếu có), báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong tháng 4-2017.
Quy định số lượng cấp phó của Tòa án nhân dân các cấp. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 663/QĐ-TANDTC về số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có số lượng Phó Chánh án không quá 3 người; số lượng cấp phó của Tòa chuyên trách, Văn phòng và các Phòng chức năng không quá 2 người.
Riêng đối với Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng Phó Chánh án không quá 4 người; số lượng cấp phó của Tòa chuyên trách, Văn phòng và các Phòng chức năng không quá 3 người.
Tòa án nhân dân tỉnh có số lượng biên chế dưới 50 người thì số lượng Phó Chánh án không quá 2 người; số lượng cấp phó của Tòa chuyên trách, Văn phòng và các Phòng chức năng có 1 người.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Chánh án là Đại biểu Quốc hội được bổ sung thêm 01 Phó Chánh án.
Tại Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, số lượng Phó Chánh án không quá 2 người; số lượng cấp phó của Tòa chuyên trách, Văn phòng là 1 người.
Đối với Tòa án nhân dân quận thuộc thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng Phó Chánh án không quá 3 người; số lượng cấp phó của Tòa chuyên trách, Văn phòng không quá 2 người.
Tòa án nhân dân huyện có số lượng biên chế dưới 10 người thì số lượng Phó Chánh án có 1 người; số lượng cấp phó của Văn phòng có 1 người.
Trong trường hợp đặc biệt, do nhu cầu công tác, việc bổ sung số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
100% đối tượng khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời. Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Quyết định số 488/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030”.
Mục tiêu của đề án hướng tới 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; mở rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước, trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp xã hội; mức trợ cấp xã hội điều chỉnh phù hợp với khả năng ngân sách và xu hướng quốc tế.
90% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện vào năm 2030.
Để đạt được mục tiêu trên, từ nay đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, đề án thực hiện tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách trợ giúp xã hội; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp trong chỉ đạo, huy động nguồn lực và thực hiện trợ giúp xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến quan điểm chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về trợ giúp xã hội, vận động xã hội nhằm thay đổi cách thức trợ giúp xã hội theo hướng tiên tiến, hiệu quả, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và trợ giúp đối tượng trợ giúp xã hội.
Đồng thời, hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng; thống nhất một cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp xã hội; đồng thời, quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế trên các lĩnh vực phòng ngừa, phát hiện, chăm sóc và trợ giúp xã hội cho đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng...
Quy định mới: Nhãn hàng hóa phải để ở vị trí quan sát dễ nhận biết. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 43/2017/NĐ-CP ngày 14.4 quy định nội dung, cách ghi và quản lý nhà nước về nhãn đối với hàng hoá lưu thông tại Việt Nam và hàng hoá nhập khẩu.
Các quy định trong Nghị định 43/2017/NĐ-CP áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá; cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo nghị định này, nhãn hàng hoá phải được thể hiện trên hàng hoá, bao bì thương phẩm ở vị trí khi quan sát có thể nhận biết dễ dàng, đầy đủ nội dung quy định của nhãn mà không phải tháo rời các chi tiết và các phần.
Ngoài ra, Nghị định còn có một số quy định đáng chú ý khác như: Đối với hàng hoá sản xuất để lưu thông trong nước thì tổ chức, cá nhân sản xuất phải chịu trách nhiệm thực hiện ghi nhãn hàng hoá.
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hóa yêu cầu tổ chức, cá nhân khác thực hiện việc ghi nhãn thì tổ chức, cá nhân đó vẫn phải chịu trách nhiệm về nhãn hàng hoá của mình.
Trong trường hợp hàng hoá xuất khẩu không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường thì tổ chức, cá nhân đưa hàng hóa ra lưu thông phải ghi nhãn theo quy định.
Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà nhãn gốc không phù hợp với quy định của nghị định này thì tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải ghi nhãn phụ theo quy định khi đưa ra lưu thông và phải giữ nguyên nhãn gốc.
Cũng theo quy định trên, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hoá tự xác định kích thước của nhãn hàng hóa, kích thước chữ và số thể hiện trên nhãn hàng hóa nhưng phải bảo đảm yêu cầu: Ghi được đầy đủ nội dung bắt buộc theo quy định; kích thước của chữ và số phải bảo đảm đủ để đọc bằng mắt thường và đáp ứng các yêu cầu.
Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đủ những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt thì phải có nhãn phụ thể hiện những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt và giữ nguyên nhãn gốc của hàng hoá.
Đối với hàng hóa không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường phải có nhãn phụ.
Những hàng hóa không phải ghi nhãn phụ gồm: Linh kiện nhập khẩu để thay thế các linh kiện bị hỏng trong dịch vụ bảo hành hàng hóa của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm đối với hàng hóa đó, không bán ra thị trường; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, linh kiện nhập khẩu về để sản xuất, không bán ra thị trường.
Nghị định 43/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1.6.2017. Theo đó, Nghị định số 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hoá ban hành ngày 30.8 sẽ hết hiệu lực.
Cảng vụ hàng hải được để lại 57% tiền phí thu được. Theo Thông tư 17/2017/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí hàng hải, các Cảng vụ hàng hải được để lại 57% tiền phí thu được để trang trải chi phí theo quy định.
Thông tư nêu rõ phí, lệ phí hàng hải do các Cảng vụ hàng hải tổ chức thu bao gồm: phí trọng tải tàu, thuyền; phí sử dụng vị trí neo, đậu; phí xác nhận kháng nghị hàng hải và lệ phí ra, vào cảng biển.
Mức thu phí trọng tải tàu, thuyền; phí sử dụng vị trí neo, đậu tại khu nước, vùng nước; phí xác nhận kháng nghị hàng hải (gọi chung là phí cảng vụ hàng hải) và lệ phí ra, vào cảng biển thực hiện theo Thông tư số 261/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về phí, lệ phí hàng hải và biểu mức thu phí, lệ phí hàng hải và Thông tư sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế (nếu có).
Về quản lý, sử dụng phí, lệ phí, Thông tư quy định, các Cảng vụ hàng hải có trách nhiệm nộp 100% tổng số tiền lệ phí ra, vào cảng biển thu được vào ngân sách trung ương.
Các Cảng vụ hàng hải được để lại 57% tiền phí thu được để trang trải chi phí theo quy định, trong đó bao gồm chi đặc thù của Cục Hàng hải Việt Nam theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và nộp 43% tiền phí thu được vào ngân sách trung ương.
Số tiền phí để lại được quản lý và sử dụng theo quy định tại Nghị định số 120/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phí và lệ phí; trong đó, bao gồm các nội dung chi: Các khoản chi thường xuyên khác liên quan đến thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí của các Cảng vụ hàng hải như chi bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn; chi bảo hộ lao động hoặc đồng phục theo chế độ quy định; chi quản lý, vận hành thường xuyên phục vụ hoạt động của hệ thống giám sát, điều khiển tàu thuyền đảm bảo an toàn hàng hải trên luồng hàng hải (hệ thống VTS); chi phí hoạt động phục vụ công tác cải cách hành chính tại cảng biển thuộc nhiệm vụ của cảng vụ hàng hải.
Chi nhiệm vụ không thường xuyên của các Cảng vụ hàng hải: Bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa hệ thống VTS và trang thiết bị phục vụ công tác đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải của cảng vụ hàng hải tại khu vực cảng biển; chi thuê trụ sở, đại diện cảng vụ hàng hải, bến ca nô, bến tàu công vụ (nếu có); chi cho công tác tìm kiếm cứu nạn người, hàng hóa, phương tiện, tàu biển bị tai nạn; chi xử lý công việc có liên quan đến phòng ngừa ô nhiễm môi trường trong vùng nước cảng biển.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18/4/2017 và áp dụng từ năm tài chính 2017.
Nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp. Bộ Tư pháp đang dự thảo “Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” đến 2022.
Bộ Tư pháp cho biết, Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 258/QĐ-TTg ngày 11/02/2010 (Đề án 258) gồm 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp.
Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện, hầu hết các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Đề án đã được thực hiện, nhờ đó thể chế về giám định tư pháp đã cơ bản được hoàn thiện một bước với việc ra đời của Luật giám định tư pháp năm 2012 và 38 văn bản hướng dẫn do Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý lĩnh vực giám định ban hành, các chế độ chính sách đối với người giám định tư pháp được quan tâm, chăm lo hơn; hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y được củng cố, hoàn thiện một bước, tổ chức pháp y tâm thần được đổi mới bằng việc thành lập các Trung tâm pháp y tâm thần khu vực trực thuộc Bộ Y tế thay cho các Trung tâm tâm thần cấp tỉnh; cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp được quan tâm đầu tư, tăng cường; đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc có sự phát triển ngày càng nhanh cả về số lượng và chất lượng; việc lập và công bố danh sách tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, người giám định tư pháp theo vụ việc trong các lĩnh vực tài chính, thuế, ngân hàng, xây dựng, thông tin và truyền thông, giao thông vận tải… được chú trọng; mô hình tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập đã được xác lập và cho phép thành lập ở lĩnh vực tài chính, xây dựng, ngân hàng, chuyên ngành di vật, cổ vật và bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn hóa; phạm vi giám định tư pháp được mở rộng gắn với việc cho phép một số người tham gia tố tụng quyền tự mình yêu cầu giám định tư pháp; chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp đã được nâng lên một bước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của hoạt động tố tụng...
Tuy nhiên, sau 5 năm triển khai, thực hiện Đề án, bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận nêu trên, công tác giám định tư pháp tuy đã có biến chuyển nhưng chưa phải là căn bản, đột phá, còn có những hạn chế, bất cập như nhận thức của các cấp các ngành về giám định tư pháp có được nâng lên nhưng chưa đầy đủ và thống nhất; thể chế cần tiếp tục hoàn thiện; nhiều vướng mắc, khó khăn trong hoạt động giám định tư pháp cần tiếp tục giải quyết, nhất là trước yêu cầu của tình hình mới của cải cách tư pháp và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng.
Đặc biệt, có nhiều nhiệm vụ giải pháp quan trọng của Đề án đang được các Bộ, ngành và địa phương triển khai, thực hiện như tăng cường cơ sở vật chất, đào tạo nguồn lực, nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, phối hợp liên ngành... cần phải tiếp tục thực hiện trong nhiều năm tới thì mới đạt kết quả và phát huy tác dụng trên thực tế.
Trên cơ sở kết quả tổng kết 5 năm thực hiện Đề án, rà soát các nhiệm vụ giải pháp chưa được thực hiện, chưa hoàn thành hoặc bổ sung một số nhiệm vụ giải pháp theo yêu cầu của tình hình mới, Bộ Tư pháp đã dự thảo “Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” đến 2022. Dự thảo Đề án đã đưa ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp bao gồm: 1- Hoàn thiện chế định giám định tư pháp, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, khả thi cho tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách pháp luật và phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới;
2- Hoàn thiện hệ thống tổ chức giám định tư pháp và tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm điều kiện hoạt động giám định tư pháp;
3- Củng cố và phát triển đội ngũ người giám định tư pháp cả về số lượng và chất lượng;
4- Nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, đổi mới hoạt động trưng cầu, yêu cầu giám định; đổi mới hoạt động đánh giá kết luận giám định;
5- Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp và thực thi pháp luật.
Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến góp ý dự thảo này trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ.
Ban hành mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 44/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, có hiệu lực thi hành từ 1-6-2017.
Theo đó, người sử dụng lao động hàng tháng đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 44 Luật an toàn, vệ sinh lao động với mức 0,5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp lao động là người giúp việc gia đình; 0,5% trên mức lương cơ sở đối với người lao động được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội.
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán thì mức đóng hằng tháng là 0,5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội; phương thức đóng được thực hiện hằng tháng, 3 tháng hoặc 6 tháng một lần.
Căn cứ vào khả năng bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Chính phủ xem xét điều chỉnh mức đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nêu trên từ ngày 1-1-2020.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ 1-6-2017.
Tập trung thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị số 14/CT-TTg về việc tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2017.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ cũng như các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ, các văn bản chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, điều hành dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2017 tích cực, chủ động, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính. Trong đó, tập trung tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật NSNN năm 2015, các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan trung ương, địa phương căn cứ vào kế hoạch, nhiệm vụ được giao năm 2017, bám sát các yêu cầu, mục tiêu, định hướng lớn đã đề ra, tập trung cải cách, hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tài chính - ngân sách; Đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách; Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công; Siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính; Quản lý, kiểm soát chặt chẽ nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tích cực phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính tập trung thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và triển khai Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phấn đấu đạt được mục tiêu môi trường kinh doanh bằng mức trung bình ASEAN-4.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức thực hiện tốt các luật thuế và nhiệm vụ thu NSNN năm 2017; Hạn chế tối đa việc đề xuất, ban hành các chính sách mới làm giảm thu NSNN (trừ các cam kết quốc tế); Quyết tâm thu đạt và vượt dự toán Quốc hội quyết định. Trong đó, các bộ, cơ quan trung ương, địa phương triển khai giao nhiệm vụ thu ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và chính quyền cấp dưới, đảm bảo không thấp hơn so với dự toán được giao. Chủ động đề ra các giải pháp, chỉ đạo quyết liệt, liên tục, phấn đấu hoàn thành vượt mức dự toán thu NSNN từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2017 được giao trên địa bàn và tăng 14-16% so với số thực hiện thu năm 2016; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu vượt dự toán và tăng 5 - 7% so với thực hiện năm 2016...
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan thuế, hải quan triển khai quyết liệt nhiệm vụ thu NSNN ngay từ đầu năm 2017, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, kiểm tra sau thông quan, tập trung vào các doanh nghiệp, lĩnh vực, mặt hàng trọng điểm, có độ rủi ro cao; Phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng, gian lận thuế, trốn thuế. Phấn đấu số nợ thuế đến ngày 31/12/2017 giảm xuống dưới 5% so với số thực thu NSNN năm 2017...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức điều hành, quản lý chi NSNN chặt chẽ, đúng chế độ quy định, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN; Chỉ đề xuất ban hành chính sách làm tăng chi ngân sách khi thật sự cần thiết và có nguồn đảm bảo. Quản lý chặt chẽ, đúng quy định và hạn chế các khoản chi chuyển nguồn NSNN; Hạn chế tối đa việc ứng trước dự toán NSNN năm sau...
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng, không để phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản mới. Tăng cường công tác quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn NSNN, xử lý vi phạm trong công tác quyết toán dự án hoàn thành... Hạn chế bố trí kinh phí đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài; hạn chế mua sắm ô tô công và trang thiết bị đắt tiền; Mở rộng thực hiện khoán xe ô tô công đảm bảo hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm...
Các địa phương tiếp tục thực hiện cơ chế tạo nguồn tiền lương trong năm 2017, bao gồm cả tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngoài lương và có tính chất lương của cơ quan, đơn vị, 50% tăng thu ngân sách địa phương thực hiện năm 2016 theo chế độ; đồng thời thực hiện điều chỉnh giá, phí dịch vụ sự nghiệp công theo lộ trình, khuyến khích các địa phương tăng nguồn thu để tạo nguồn cải cách tiền lương...
Các địa phương chủ động điều hành đảm bảo cân đối ngân sách địa phương, tổ chức chi ngân sách theo dự toán đã được cấp có thẩm quyền thông qua và khả năng thu ngân sách; Điều hành chi trong phạm vi dự toán chi được giao và tiến độ một số nguồn thu gắn liền với dự toán chi đầu tư phát triển (thu tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết,...); Phấn đấu tăng thu vượt dự toán được cấp có thẩm quyền quyết định và chủ động dành nguồn để thực hiện các chính sách Nhà nước đã ban hành, giảm nguồn ngân sách trung ương phải hỗ trợ.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi ngân sách trong phạm vi quản lý và theo chức năng, nhiệm vụ được giao; đảm bảo vốn ngân sách được sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, hiệu quả. Rà soát các chế độ, chính sách an sinh xã hội, nhất là các khoản chi cho con người để đảm bảo chi đúng đối tượng, đúng thời gian theo quy định của từng cấp chính quyền địa phương các cấp.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước các cấp tăng cường công tác quản lý, điều hành kiểm soát chi ngân sách; Thực hiện cắt giảm dự toán đối với các khoản dự toán chi thường xuyên đã được giao từ đầu năm nhưng đến hết năm ngân sách theo quy định vẫn còn dư dự toán, trừ các khoản mới bổ sung trong năm và các trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương kiểm soát chặt chẽ các khoản vay, hạn chế tối đa việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ thành vốn cấp phát NSNN; thực hiện đánh giá đầy đủ các tác động lên nợ công, nợ chính quyền địa phương và khả năng trả nợ trong trung hạn của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, trước khi thực hiện các khoản vay mới...
Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tiếp tục thực hiện quản lý, điều hành giá các mặt hàng Nhà nước còn định giá, các mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu (xăng dầu, điện, dịch vụ sự nghiệp công...) theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2017; Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để quyết định thời điểm, mức điều chỉnh, hạn chế tác động lớn đến mặt bằng giá cả thị trường chung, sản xuất và đời sống nhân dân, đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.
Thủ tướng cũng yêu cầu đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo lộ trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tăng cường quản lý tài chính doanh nghiệp, đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Tập trung triển khai phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020...
Sửa quy định về sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 28/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 45/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.
Theo quy định hiện hành tại Thông tư 45/2013/TT-BTC, việc xác định nguyên giá tài sản cố định vô hình là quyền sử dụng đất được quy định như sau: Đối với các loại tài sản là nhà, đất đai để bán, để kinh doanh của công ty kinh doanh bất động sản thì doanh nghiệp không được hạch toán là tài sản cố định và không được trích khấu hao.
Tuy nhiên, Thông tư 28/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau: Đối với các tài sản là nhà hỗn hợp vừa dùng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa dùng để bán hoặc cho thuê theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp phải xác định và hạch toán riêng phần giá trị của nhà hỗn hợp theo từng mục đích sử dụng.
Cụ thể, đối với phần giá trị tài sản (diện tích) tòa nhà hỗn hợp dùng để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và dùng để cho thuê (trừ trường hợp cho thuê tài chính): doanh nghiệp thực hiện ghi nhận giá trị của phần tài sản (diện tích) là tài sản cố định, quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định theo quy định.
Đối với phần giá trị tài sản (diện tích) trong tòa nhà hỗn hợp dùng để bán thì doanh nghiệp không được hạch toán là tài sản cố định và không được trích khấu hao và theo dõi như một tài sản để bán.
Tiêu thức để xác định giá trị từng loại tài sản và phân bổ khấu hao tài sản đối với từng mục đích sử dụng được căn cứ vào tỷ trọng giá trị của từng phần diện tích theo từng mục đích sử dụng trên giá trị quyết toán công trình; hoặc căn cứ vào diện tích thực tế sử dụng theo từng mục đích sử dụng để hạch toán.
Đối với các doanh nghiệp có nhà hỗn hợp mà không xác định tách riêng được phần giá trị tài sản (diện tích) phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa để bán, để cho thuê thì doanh nghiệp không hạch toán toàn bộ phần giá trị tài sản (diện tích) này là tài sản cố định và không được trích khấu hao theo quy định.
Đối với các tài sản được dùng chung liên quan đến công trình nhà hỗn hợp như sân chơi, đường đi, nhà để xe việc xác định giá trị của từng loại tài sản và giá trị khấu hao các tài sản dùng chung cũng được phân bổ theo tiêu thức để xác định giá trị từng loại tài sản và phân bổ khấu hao nhà hỗn hợp.
Thông tư 28 có hiệu lực thi hành từ ngày 26/5/2017 và áp dụng từ năm tài chính 2016.
Hỗ trợ Yên Bái hơn 460 tấn gạo. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 462,72 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Yên Bái để hỗ trợ cứu đói cho nhân dân trong thời gian giáp hạt đầu năm 2017.
UBND tỉnh Yên Bái tiếp nhận và sử dụng số gạo được cấp bảo đảm hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng theo quy định.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 351,915 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Tuyên Quang để hỗ trợ cứu đói cho nhân dân trong thời gian giáp hạt năm 2017.
Khẩn trương ban hành Kế hoạch hành động bảo vệ môi trường. Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa ban hành Kế hoạch hoặc Chương trình hành động bảo vệ môi trường cần khẩn trương xây dựng, ban hành theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 25/CT-TTg, hoàn thành trong tháng 4/2017.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường đôn đốc và kiểm tra các địa phương thực hiện nhiệm vụ trên.
UBND các tỉnh, thành phố: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Phước, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tiền Giang, Trà Vinh và thành phố Cần Thơ nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Các bộ, ngành, địa phương bổ sung kinh phí ngay từ kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017 để kịp thời triển khai các nhiệm vụ, giải pháp được giao, nhất là đối với các nhiệm vụ, giải pháp phải hoàn thành trong năm 2017.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ Công Thương, Xây dựng và các cơ quan liên quan rà soát, ban hành danh mục các ngành công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao làm cơ sở xem xét, định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; chuẩn bị kỹ lưỡng đề án về vấn đề kiểm soát đặc biệt đối với cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất với Bộ Tư pháp và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương sửa đổi Luật bảo vệ môi trường; thống nhất với Bộ Nội vụ và báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc rà soát tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở địa phương trong quá trình xây dựng Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện.
Văn phòng BCĐ Đề án đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân đặt tại Bộ Công an. Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 524/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 8-6-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020.
Quyết định số 524/QĐ-TTg sửa đổi một số nội dung về Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020.
Theo đó, Trưởng Ban chỉ đạo là Phó Thủ tướng Chính phủ. Phó Trưởng ban gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Công an; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Thành viên Ban Chỉ đạo là Lãnh đạo cấp Thứ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Bộ Công an; Bộ Tư pháp; Bộ Tài chính; Bộ Y tế; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Xây dựng; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nội vụ; Bộ Ngoại giao; Văn phòng Chính phủ; Lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Theo Quyết định số 524/QĐ-TTg, Văn phòng Ban Chỉ đạo đặt tại Bộ Công an thay vì đặt tại Bộ Tư pháp như Quyết định số 896/QĐ-TTg.
Về nhân sự Văn phòng Ban Chỉ đạo, Quyết định 524/QĐ-TTg nêu rõ: Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo là Lãnh đạo Bộ Công an. Phó Chánh Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo là Lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an. Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo gồm: Lãnh đạo Cục Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư, Bộ Công an; Lãnh đạo Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư pháp; Lãnh đạo Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ; Lãnh đạo Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông; Lãnh đạo Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao; Lãnh đạo Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ.
Chánh Văn phòng và Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo sử dụng công chức thuộc quyền quản lý của mình để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Nhân sự chuyên trách của Văn phòng Ban Chỉ đạo, gồm: Sĩ quan của một số đơn vị thuộc Bộ Công an và công chức biệt phái của Bộ, cơ quan ngang Bộ (nếu có). Việc điều động sĩ quan, công chức biệt phái và thời gian biệt phái thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành. đầu trang(

TIÊU ĐIỂM
Thời gian vừa qua, “thần tốc” là thuật ngữ được báo chí sử dụng nhiều với cái nghĩa tiêu cực trong công tác cán bộ của một số cơ quan đơn vị ở nhiều nơi trong bộ máy của hệ thống chính trị.
Dư luận xôn xao trường hợp Trần Vũ Quỳnh Anh, Trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản Sở Xây dựng Thanh Hóa được thăng tiến “thần tốc”. Sinh năm 1986, từ nhân viên tạp vụ, trong một thời gian ngắn, Quỳnh Anh từ chuyên viên đã lên chức Trưởng phòng và còn tiếp tục được quy hoạch chức danh Phó Giám đốc sở.
Vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa ra nghị quyết cho thôi nhiệm vụ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) chuyên trách ở T.Ư đối với ông Nguyễn Văn Cảnh, Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, theo nguyện vọng của ông này.
Từ ngày 20-3 đến 15-8-2013, trong vòng 5 tháng, ông Cảnh từ chủ một doanh nghiệp tư nhân đã “thần tốc” trở thành Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH - HĐND tỉnh Bình Định. Sau khi trúng cử đại biểu Quốc hội, đến ngày 28-11-2014,
Ban Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội có công văn thông báo đồng ý chủ trương điều ông Cảnh về làm Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Dư luận cũng đặt ra nhiều băn khoăn trước việc bổ nhiệm “thần tốc” ở Sở LĐ-TB&XH tỉnh Hải Dương đối với ông Phạm Văn Kháng. Ông Kháng được tiếp nhận về công tác tại Phòng Việc làm – An toàn lao động (Sở LĐ-TB&XH) kể từ ngày 15-2-2016 theo QĐ số 02/QĐ – SNV ký ngày 3-2-2016.
Theo quyết định bổ nhiệm không qua thi tuyển công chức, ông Kháng được xếp ngạch chuyên viên mã số 01.003, bậc 3, hệ số lương 3.00 kể từ ngày nhận công tác. Cùng ngày, Sở LĐ-TB&XH Hải Dương đã có QĐ số 308 về việc tiếp nhận bổ nhiệm cán bộ đối với ông Phạm Văn Kháng vào vị trí Phó trưởng Phòng Việc làm – An toàn lao động. Thời hạn giữ chức vụ 5 năm (kể từ ngày 15-2-2016 đến 15-2-2021). Ông Kháng được hưởng phụ cấp 0,3 kể từ ngày được nhận bổ nhiệm.
Rồi ở những cơ quan khác như Bộ Công Thương, theo kết luận của cơ quan chức năng ngoài Trịnh Xuân Thanh còn bổ nhiệm sai 96 trường hợp, Sở NN&PTNT Thái Nguyên bổ nhiệm thừa 23 trường hợp. Liệu còn bao nhiêu cơ quan, địa phương, những hiện tượng thăng tiến “thần tốc”, bổ nhiệm “thần tốc” như thế chưa được phát hiện, xử lý?
Vậy với những trường hợp như trên, đâu là nguyên nhân? Dư luận đặt ra câu hỏi, suy diễn sự việc ra theo nhiều hướng khác nhau, có thể là có “ông nọ, người kia” chống lưng, dùng tiền mà “chạy chức, chạy quyền”, tham ô, tham nhũng trong công tác cán bộ thì mới thăng tiến “thần tốc” như vậy, hay “chỉ có thần tiền mới làm được”? Kết quả cụ thể một số trường hợp sai phạm đã được kết luận, có trường hợp cơ quan chức năng đang tiếp tục vào cuộc làm rõ.
Những sự việc trên, rõ ràng công tác cán bộ còn nhiều tồn tại, để lại những hậu quả nghiêm trọng, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Những người vì “tư lợi”, “tình riêng” “con ông cháu cha”, tham ô, tham nhũng… từ công tác cán bộ. Họ không xuất phát từ lợi ích chung, vì công việc mà quy hoạch, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ sai quy định, quy trình, “nhắm mắt” làm liều, bổ nhiệm chức quyền ấy cho người không đủ tiêu chuẩn là vì “tư tình”, lợi ích riêng, không thế thì cũng là tạo ê kíp để củng cố cái ghế quyền lực của mình thật chắc. Đây là một dạng nghiêm trọng của suy thái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống mà Nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra.
Đối với cá nhân dùng tiền, dùng những hình thức tiêu cực khác để có quyền, có “ghế”, có vị trí thật nhanh, thật cao… là con người “tham quyền”. Trong những trường hợp này thì “vị trí ấy”, cái quyền ấy không hợp với lòng dân, không dân chủ. Vậy những quyết sách, việc làm của quan “tham quyền”, “thần tốc” như vậy với danh nghĩa là thực thi công vụ, vì lợi ích của dân có phù hợp với lợi ích nguyện vọng của dân? Những việc làm cho dân ấy liệu có gắn những lợi quyền của cá nhân? “Quan” tham quyền mà tại vị ở đó, “nhầm ghế” thì thật là tai hại.
Bên cạnh đó, những cán bộ, đảng viên khác những người có năng lực, có tâm huyết, có đạo đức vì những việc như trên mà bị loại ra, không được đề bạt, bổ nhiệm, không được nhìn nhận một cách đúng mức, họ cũng “tâm tư”, chán nản. Nhiều người không vững vàng về tư tưởng chính trị, qua đó mà suy nghĩ tiêu cực, bi quan, bè phái, mất đoàn kết, nhiều trường hợp bị kích động trở thành kẻ chống đối, cơ hội chính trị,  “trở cờ”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ở một khía cạnh khác, có những trường hợp như Kết luận thanh tra của Bộ Nội vụ công bố từ năm 2011 – 2014, Bộ Công Thương đã bổ nhiệm sai 96 trường hợp, có những trường hợp diễn ra vẫn “đúng quy trình”, vẫn đưa ra cấp ủy, tổ chức mà không đủ tiêu chuẩn. Song cấp ủy, cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám đấu tranh, không dám nói thật, nói thẳng vì sợ, vì nể nang hay vì những lý do khác nhau… cũng là một hình thức tiếp tay cho những sai phạm nêu trên.
Song nguy hại hơn, qua những sự việc nêu trên đã tạo dư luận xấu, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào công tác cán bộ, vào chế độ; tạo điều kiện để các thế lực thù địch xuyên tạc vào đường lối độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò làm chủ của nhân dân.
Thực tế qua những sự việc vừa qua cho thấy, những nơi không có dân chủ trong Đảng thường đi đôi với lãnh đạo, quản lý gia trưởng, thậm chí độc đoán chuyên quyền. Có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương điều lệ Đảng, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước không nghiêm, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ bất chấp nguyên tắc, quy định. Có như vậy vì nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng bị vi phạm.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nguyên tắc quy định mọi công việc của Đảng đều phải đưa cho toàn thể đảng viên bàn bạc một cách hoàn toàn dân chủ, rồi tập trung mọi ý chí và hành động của từng tổ chức Đảng cho tới đảng viên vào các trung tâm lãnh đạo của từng cấp.
Những trung tâm đó không bao giờ là một cá nhân mà là một tập thể đã được toàn thể đảng viên trong tổ chức Đảng lựa chọn và bầu cử bằng phiếu kín, không chịu áp lực của bất cứ thế lực nào. Nguyên tắc tổ chức cơ bản đó khi vận dụng vào công tác cán bộ, không cho phép bất cứ cá nhân nào thao túng để mưu tính lợi riêng. Thảo luận công việc thì hoàn toàn tự do, không ai cấm ai được nói hết ý của mình nhưng khi biểu quyết thì thiểu số phải phục tùng đa số, có biên bản ghi chép và được đọc lại cho toàn chi bộ nghe rõ.
Ai cần bảo lưu ý kiến được ghi vào biên bản, báo cáo cấp trên xem xét. Nguyên tắc "tập trung dân chủ" không cho phép bất cứ đảng viên nào được nói và làm trái nghị quyết chung. Khi cấp ủy bàn bạc để triển khai nghị quyết của tổ chức Đảng thì phải thực hiện "Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách". Không ai có quyền "xông" vào lĩnh vực mình không được tập thể phân công.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tập trung dân chủ trong Đảng chặt chẽ, biện chứng với tập trung dân chủ ngoài xã hội nhằm xây dựng được một cơ chế quản lý tập trung và phân cấp hợp lý trong toàn hệ thống chính trị.
Thực hiện dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề căn cơ trong công tác cán bộ tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ bí thư, cấp ủy viên các cấp về vai trò, bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ và các quy định liên quan đến nguyên tắc tập trung dân chủ trong các quy định. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng tinh thần của Điều lệ Đảng, đồng bộ với các nguyên tắc phê bình và tự phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Hai là, phát huy sức chiến đấu của tổ chức Đảng, vai trò của cán bộ, đảng viên phê bình và tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng, được chất vấn, phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp; quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức Đảng. Tuy nhiên, thiểu số phải phục tùng đa số, khi Đảng đã có nghị quyết thì mỗi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết.
Tổ chức Đảng, đảng viên chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Cán bộ, đảng viên được bầu chọn đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo phải chịu sự giám sát của tổ chức và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước tổ chức đã bầu ra mình, thường xuyên báo cáo tình hình của tổ chức và hoạt động của mình đến các tổ chức Đảng cấp dưới và đảng viên.
Ba là, kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Phát huy dân chủ chống đặc quyền, đặc lợi trong Đảng sẽ có tác động quyết định đến việc chống quan liêu, tham nhũng trong công tác cán bộ, thực hành dân chủ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Bốn là, nâng cao chất lượng đảng viên. Đảng viên là lực lượng xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; là lực lượng trực tiếp động viên, tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương đó; là tấm gương để quần chúng noi theo.
Năm là, tập trung giải quyết mất đoàn kết nội bộ hoặc đơn, thư khiếu nại, tố cáo theo quy định.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Cấp ủy cấp trên cần lập các đoàn kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Tăng cường công tác giám sát, nắm tình hình, nhất là những nơi có biểu hiện nội bộ mất đoàn kết, có biểu hiện sai phạm; có vấn đề phức tạp nảy sinh, vấn đề bức xúc mà đảng viên và nhân dân phản ánh, tạo cơ sở và sự chủ động cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. (Công An Nhân Dân 17/4) đầu trang(

PHÁT NGÔN NÓNG
Cấp trên không cần các đồng chí đem tiền bạc tới
“Người quản lý phải biết đặt lợi ích chung lên trên, không có đường dây tham nhũng... Cấp trên các đồng chí không có nhu cầu phải đem tiền bạc tới để làm việc này việc khác” (Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Đảng bộ khối DN TƯ sáng 11-4).
Làm công bộc mà bà con chửi thì ráng phải nghe
“Phải kiên trì, làm công chức, công bộc mà bà con chửi thì phải ráng nghe, dân chưa hiểu thì ráng vận động vì trách nhiệm quản lý nhà nước là của mình.” (Bí thư Thành ủy TP Hà Nội Hoàng Trung Hải phát biểu tại buổi làm việc với quận Cầu Giấy sáng 13-4.) đầu trang(

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Tiếp tục chủ động- sáng tạo để tạo bước đột phá mới trong cải cách hiện đại hóa hải quan. Chiều 17/4/2017, tại trụ sở Tổng cục Hải quan, Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan và đón nhận Huân chương lao động hạng Ba.
Tới dự và chúc mừng đơn vị có các đồng chí: Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung; nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Ngọc Túc; Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn; Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Vũ Ngọc Anh; cùng đại diện các đơn vị thuộc và trực thuộc Tổng cục Hải quan; các đồng chí nguyên là lãnh đạo Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan.
Tại hội nghị, các đại biểu tới dự đã được xem lại chặng đường phát triển của đơn vị qua phóng sự "Lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan-10 năm thiết lập và trưởng thành".
Chặng đường 10 năm qua, lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan đã đạt được nhiều thành tích quan trọng gắn với từng giai đoạn phát triển của ngành, góp phần quan trọng đưa ngành Hải quan trở thành một trong những cơ quan quản lý nhà nước đi đầu trong việc triển khai thành công một loạt hoạt động mới, mang tính đột phá như: Xây dựng, quản trị Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020, xác định tầm nhìn, mục tiêu chiến lược đến năm 2020 của ngành Hải quan và các mục tiêu, giải pháp cụ thể đối với các lĩnh vực nghiệp vụ của ngành; điều phối toàn ngành triển khai đồng bộ, thống nhất công tác CCHĐH, hoàn thành cơ bản mục tiêu 5 năm của Chiến lược trên tất cả các lĩnh vực; nghiên cứu và trực tiếp triển khai thành công thủ tục Hải quan điện tử; nghiên cứu, xây dựng nền tảng cơ bản triển khai cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN; nghiên cứu, xây dựng phương pháp luận, và triển khai đánh giá hiệu quả hoạt động hải quan bằng hệ thống chỉ số; nghiên cứu, triển khai các hoạt động phát triển quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp; nghiên cứu, xây dựng phương pháp luận và từng bước triển khai ứng dụng thí điểm phương pháp quản lý nguồn nhân lực dựa trên khung năng lực và vị trí việc làm.
Tại buổi lễ, thay mặt Đảng ủy, lãnh đạo Tổng cục Hải quan, Trưởng Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn đã đánh giá cao thành tích của lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan cũng như lực lượng bán chuyên trách cải cách hiện đại hóa tại các cục hải quan tỉnh, thành phố.
Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn cho rằng, dấu mốc phát triển sâu đậm nhất, bước ngoặt trong công tác cải cách hiện đại hóa hải quan đánh dấu bằng việc thành lập lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan (Ban Cải cách hiện đại hóa hải quan) tháng 4/2007.
Trải qua 10 năm thiết lập và phát triển, lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan đã có nhiều cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đóng góp công sức vào thành tích chung của ngành và đã được tập thể lãnh đạo Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan ghi nhận, các đơn vị hữu quan trong và ngoài ngành ủng hộ, chia sẻ.
Trong thời gian tới để phát triển ngành Hải quan trở thành cơ quan hiện đại, chuyên nghiệp, chuyên sâu, đi đầu trong cả nước về thực hiện cải cách  hành chính công theo hướng cơ quan Hải quan điện tử, từng bước trở thành một trong những cơ quan Hải quan hiện đại nhất trong khu vực, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn  yêu cầu, lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa hải quan cần tiếp tục làm tốt vai trò là đơn vị quản trị điều phối việc triển khai Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020.
Bên cạnh đó, lực lượng cải cách hiện đại hóa hải quan cần tiếp tục chủ trì nghiên cứu, đánh giá các tác động trong và ngoài nước, nghiên cứu xu hướng phát triển hải quan hiện đại... chuẩn bị đề xuất mô hình, định hướng phát triển Hải quan Việt Nam giai đoạn 2021-2035. Qua đó xác định những mục tiêu của Hải quan Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế đất nước, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời đảm bảo yêu cầu quản lý hải quan hiện đại.
Song song, lực lượng cải cách hiện đại hóa hải quan cần nghiên cứu, ứng dụng và triển khai chính thức trong toàn Ngành phương pháp quản lý nguồn nhân lực theo khung năng lực và vị trí việc làm, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; triển khai hiệu quả mô hình Cơ quan Hải quan điện tử theo hướng minh bạch, hiệu quả và chuyên nghiệp.
Để làm tốt các nhiệm vụ được giao, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn chỉ đạo lực lượng chuyên trách cải cách hiện đại hóa cần tiếp tục đoàn kết, đổi mới, sáng tạo để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tích cực đóng góp trí tuệ cho công tác cải cách hiện đại hóa góp phần tích cực xây dựng Hải quan Việt Nam ngày càng hiện đại. Nhân dịp này, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn cùng gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới toàn thể CBCC làm công tác cải cách hiện đại hóa.
Hà Nội: Công an xuống phường cấp thẻ căn cước công dân. Hưởng ứng “Năm kỷ cương hành chính 2017”, tri ân các thương binh, liệt sĩ và nâng cao chất lượng cải cách thủ tục hành chính (TTHC) theo hướng có lợi cho Nhân dân, thời gian qua, cán bộ chiến sĩ Đội Cảnh sát quản lý hành chính (QLHC) - Công an quận Đống Đa đã tổ chức xuống cơ sở để làm thủ tục cấp thẻ căn cước công dân (CCCD).
Đây được xem là việc làm đầy ý nghĩa và bước đầu đã tạo niềm tin, sự gần gũi với người dân.
Theo chân các cán bộ chiến sĩ Đội Cảnh sát QLHC, đúng 7 giờ 30 phút ngày 16/4, chúng tôi có mặt tại UBND phường Văn Miếu để thực hiện công tác chuẩn bị cấp thẻ CCCD cho người dân ở 3 phường (Văn Miếu, Văn Chương và Quốc Từ Giám). Khi xe vừa đến trụ sở UBND phường Văn Miếu, Tổ công tác của Công an quận Đống Đa với hơn 10 cán bộ, chiến sĩ lập tức bắt tay ngay vào việc bố trí bàn ghế để người dân đến làm thẻ CCCD được thuận tiện. Ngay sau đó, hệ thống máy tính, máy lấy vân tay, máy chụp ảnh… cũng được lắp đặt hoàn chỉnh. Chỉ sau 30 phút, mọi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất để kịp phục vụ người dân.
Theo ghi nhận của phóng viên, đúng 8 giờ, theo như kế hoạch thông báo từ trước, rất đông cán bộ hưu trí, lão thành cách mạng… đã có mặt để làm các thủ tục cấp thẻ CCCD. Tất cả đều được cán bộ, chiến sĩ Đội Cảnh sát QLHC hướng dẫn tận tình, chu đáo từ khâu từ kê khai hồ sơ cá nhân đến lấy dấu vân tay rồi chụp ảnh.
Ông Dương Văn Thanh – một cán bộ lão thành cách mạng sống trên địa bàn phường Văn Miếu hồ hởi cho biết, khi nghe thông báo của phường và tổ dân phố về việc các cán bộ, chiến sĩ của Công an quận Đống Đa sẽ xuống tận phường vào ngày nghỉ (Chủ nhật) để cấp đổi thẻ CCCD cho người dân, bản thân ông rất phấn khởi nên đã bố trí thời gian đến xếp hàng từ rất sớm để chờ đến lượt. Khi tới nơi, nhờ được cán bộ, chiến sĩ hướng dẫn tận tình, cụ thể nên chưa đầy 15 phút sau, ông đã hoàn thiện xong mọi thủ tục.
Trung tá Vũ Hồng Thanh - Đội trưởng Đội Cảnh sát QLHC cho biết, thủ tục cấp đổi thẻ CCCD hiện rất nhanh gọn nhờ có hệ thống máy móc hiện đại. Vì vậy, Công an quận đã kết hợp với Công an các phường tổ chức cấp CCCD cho người dân tại nhà.
Theo đó, hoạt động này sẽ được duy trì thường xuyên tại các phường để giúp người dân (nhất là thân nhân các gia đình thương binh liệt sĩ, cán bộ lão thành cách mạng…) thuận lợi trong việc đăng ký các TTHC. Đồng thời, qua đây còn thể hiện sự tận tâm của các cán bộ, chiến sĩ Công an quận Đống Đa đối với việc phục vụ Nhân dân. Ngoài ra, các cán bộ, chiến sĩ còn làm thêm giờ và đến tận nhà hỗ trợ những người gặp khó khăn trong việc đi lại.
Chia sẻ với phóng viên báo Kinh tế & Đô thị về hoạt động thiết thực này, Thiếu tá Nguyễn Tiến Đạt - Phó trưởng Công an quận Đống Đa cho biết, hoạt động cấp CCCD lưu động này nằm trong kế hoạch của Công an quận nhằm nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính. Theo kế hoạch, Công an quận sẽ thực hiện 3 giảm, gồm: Giảm hồ sơ giấy tờ, giảm việc đi lại của công dân và giảm thời gian giải quyết TTHC. Đồng thời, qua đó cũng nâng cao ý thức, trách nhiệm với công việc, tinh thần phục vụ Nhân dân và thực hiện hiệu quả công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình chính sách.
Cổng thông tin tờ khai hải quan điện tử đi vào hoạt động. Tổng cục Hải quan vừa chính thức cung cấp thông tin tờ khai hải quan điện tử nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý và doanh nghiệp, góp phần thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử và dữ liệu điện tử.
Theo cách làm cũ, trong việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, các cơ quan liên quan gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn chấp nhận hoặc không chấp nhận bản in từ tờ khai hải quan điện tử do doanh nghiệp xuất trình.
Lý do là tại các văn bản pháp luật hiện nay không quy định việc cơ quan hải quan đóng dấu xác nhận trên bản in từ tờ khai hải quan điện tử. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành của các cơ quan liên quan cũng chưa quy định việc sử dụng thông tin tờ khai hải quan điện tử.  Điều này, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và chính cơ quan hải quan trong việc rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục thông quan.
Để giải quyết khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 33/2016/QĐ-TTg ngày 19/8/2016 về việc ban hành quy chế cung cấp, sử dụng thông tin tờ khai hải quan điện tử. Thực hiện quyết định, Tổng cục Hải quan đã xây dựng và đưa vào vận hành Cổng thông tin tờ khai hải quan điện tử.
Cổng thông tin tờ khai hải quan điện tử sẽ cung cấp thông tin tờ khai hải quan điện tử cho các cơ quan liên quan với các cơ quan liên quan như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa được Bộ Công Thương ủy quyền, cơ quan quản lý Nhà nước, từ đó, đẩy nhanh việc triển khai các thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Ngoài việc kết nối hệ thống thông tin với Cổng thông tin hải quan, các cơ quan liên quan có thể tra cứu thông tin bằng cách sử dụng tài khoản truy cập vào địa chỉ http://tkhqdt.customs.gov.vn hoặc nhắn tin vào số điện thoại 0869600633.
Lãnh đạo Tổng cục Hải quan cho biết việc triển khai quy chế cung cấp, sử dụng thông tin tờ khai hải quan điện tử sẽ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khi khai hải quan điện tử, đồng thời bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc sử dụng thông tin tờ khai hải quan điện tử trong hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan liên quan, hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử,  góp phần thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ.
Đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến.
Nhằm tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh đầu tư thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, cũng như các mục tiêu về Chính phủ điện tử...Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến.
Việc triển khai, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, công dân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, tạo ra một phương thức giao dịch hiện đại, minh bạch giữa cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân, phục vụ hiệu quả công tác cải cách hành chính.
Cả năm 2017, Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì tổ chức thực hiện và đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nội dung về hiện đại hóa hành chính.
Trong đó, triển khai Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng phục vụ và tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến; khẩn trương xây dựng, đưa vào vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia năm 2017. Rà soát, lập danh mục dịch vụ công mức độ 3, 4.
Tiếp tục triển khai việc xây dựng, vận hành và nâng cao hiệu quả cổng thông tin tiếp nhận, xử lý kiến nghị và công khai kết quả giải quyết thủ tục hành chính; công khai kết quả tiếp nhận, xử lý kiến nghị. Người đứng đầu bộ, ngành UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm thực hiện nghiêm quy định về giải trình và giải quyết các kiến nghị của người dân và doanh nghiệp.
Quy trình hóa việc giải quyết công việc của cơ quan hành chính theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008. Tiếp tục duy trì, cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; mở rộng hệ thống quản lý chất lượng đối với hoạt động nội bộ; từng bước triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 điện tử; nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan hành chính thông qua việc sử dụng hiệu quả mạng thông tin điện tử hành chính.
Hà Nội tìm giải pháp cải thiện chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công. Chiều 20/4, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) Hà Nội đã tổ chức Tọa đàm “Ðánh giá kết quả Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công TP Hà Nội năm 2016 và giai đoạn 2011 - 2016 - Một số giải pháp cải thiện”.
Chỉ số “Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam” (PAPI) là công cụ phản ánh tiếng nói người dân về mức độ hiệu quả điều hành, quản lý Nhà nước, thực thi chính sách và cung ứng dịch vụ công (DVC) của chính quyền các cấp; là sản phẩm hợp tác nghiên cứu từ năm 2009 đến nay giữa Trung tâm Nghiên cứu Phát triển - Hỗ trợ cộng đồng (Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam.
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội Nguyễn Thanh Bình khẳng định: Viện sẽ tổng hợp những ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học tại buổi Tọa đàm này để cung cấp thông tin, kiến nghị với lãnh đạo TP một số giải pháp nhằm chỉ đạo, điều hành nâng cao chỉ số PAPI của Thủ đô thời gian tới, với mục đích cuối cùng là xây dựng một chính quyền năng động, tiên phong, phục vụ người dân, DN tốt hơn.
Báo cáo PAPI 2016 giới thiệu kết quả khảo sát toàn quốc lần thứ 6, được xây dựng trên nền tảng nghiên cứu định lượng với quy mô mẫu khảo sát năm 2016 là 14.063 người dân, chọn ngẫu nhiên đại diện cho các nhóm nhân khẩu đa dạng từ 63 tỉnh, TP cả nước, tham gia trả lời phỏng vấn trực tiếp để chia sẻ đánh giá về hiệu quả quản trị và hành chính công từ cấp chính quyền tỉnh đến cấp xã. Hà Nội có 6 huyện/quận được chọn khảo sát.
Theo kết quả, năm 2016, Hà Nội nằm trong nhóm các tỉnh/TP có điểm các chỉ số PAPI thấp, cùng với Khánh Hòa, Quảng Ninh và Bình Dương - đều là những địa phương có điều kiện phát triển KT-XH. Cả 6 chỉ số nội dung của TP đều nằm trong nhóm trung bình thấp và thấp so với thang điểm tối đa là 10 điểm có thể đạt được.
So với năm 2015, chỉ số PAPI của Hà Nội năm 2016 có 4/6 chỉ số nội dung tăng điểm (gồm: Tham gia của người dân ở cấp cơ sở, Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công, TTHC công, Cung ứng DVC), song vẫn giảm điểm so với năm 2015, chính là do nội dung “Trách nhiệm giải trình với người dân” giảm mạnh nhất (xếp thứ 60/63) và tiếp đến là nội dung “Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công” (xếp thứ 58/63).
Từ khảo sát này, Viện Nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội đề xuất 9 nhóm giải pháp cần thực hiện để cải thiện các chỉ số nội dung trong PAPI của Hà Nội trong thời gian tới. Trước hết, cần có sự chỉ đạo và vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ TP đến cơ sở, trên cơ sở phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể Nhân dân trong tuyên truyền và phản biện xã hội. Thứ hai, chỉ đạo làm tốt các quy định về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đổi mới công tác tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, ngành, nhất là công tác tuyên truyền tại cơ sở.
Thứ ba, chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc công tác bình xét hộ nghèo, công khai các vấn đề về danh sách hộ nghèo, thu chi ngân sách cấp xã, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Thứ tư, đề cao trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã trong giải quyết những vướng mắc của người dân, nhất là các vụ việc khiếu nại, tố cáo; tạo thuận lợi để người dân tham gia nhiều hơn vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, cơ chế, chính sách; tăng đối thoại trực tiếp và thực hiện nghiêm chế độ tiếp dân...
Thứ năm, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức vi phạm; nâng cao tinh thần, trách nhiệm và đạo đức trong thực thi công vụ; xác định trách nhiệm của người đứng đầu qua kiểm tra công vụ; chống biểu hiện gây sách nhiễu Nhân dân… Thứ sáu, thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh cho Nhân dân; nâng cao chất lượng hoạt động của bệnh viện tuyến huyện, chất lượng giáo dục, trong đó coi trọng giáo dục bậc mầm non, tiểu học; làm tốt xã hội hóa giáo dục.
Thứ bảy, tăng cường các biện pháp bảo đảm môi trường, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở các xã, phường, thị trấn; tập trung xử lý nghiêm các tệ nạn xã hội. Thứ tám, tăng cường vai trò giám sát của MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với các cấp chính quyền, tăng sự tương tác chính quyền - người dân.
Thứ chín, tăng cường chỉ đạo thực hiện công tác cải cách hành chính, trong đó tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận “một cửa” các cấp trong giải quyết TTHC cho người dân, DN. đầu trang(

SAI PHẠM
Dương Chí Dũng hết tài sản thu hồi: Không có gì lạ... Nếu ông Dương Chí Dũng bị tử hình thì những người trực tiếp có liên quan đến ông này phải chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ trả nợ 88 tỷ đồng.
Mới đây, Cục Thi hành án dân sự Hà Nội cho biết đã ra quyết định không có điều kiện thi hành án khoản tiền trên 88,5 tỷ đồng đối với Dương Chí Dũng - vì kết quả xác minh cho thấy “không còn tài sản”.
Theo bản án của TAND Tối cao, ông Dũng phải bồi thường Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam 110 tỷ đồng. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, tổng số tài sản nhà nước thu hồi được từ vụ án Dương Chí Dũng chỉ dừng lại ở mức 21 tỷ đồng.
Đưa ra quan điểm của mình, PGS.TS Hoàng Văn Cường, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân, ĐBQH Hà Nội khẳng định, không chỉ mình vụ án Dương Chí Dũng mà thời gian qua nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề thu hồi tài sản tham ô, tham nhũng.
Theo ông Cường, một khi tiền đã rơi vào tay của những người tham ô, tham nhũng, thậm chí cả trộm cắp trong trường hợp bắt được cũng rất khó khăn trong việc lấy lại tài sản.
“Khi một ai đó đã có mục đích tham ô thì đương nhiên họ sẽ nghĩ cách để tẩu tán tài sản, chia cho người này, người kia chứ không dại gì giữ bên cạnh. Số tiền bị chia nhỏ nên trường hợp Dương Chí Dũng chúng ta chỉ mới tịch thu được 21 trên 110 tỷ đồng  cũng là điều dễ hiểu.
Việc này tôi cho rằng không phải tại cơ quan điều tra không rà soát hết tài sản. Cái chính là do cán bộ nhà nước tìm cách lách luật, che giấu tài sản của bản thân”, ông Cường nhấn mạnh.
Vị ĐBQH dẫn thống kê gần đây cho thấy, trong 10 năm qua, thiệt hại do tham nhũng đã lên tới gần 60.000 tỷ đồng, nhưng Nhà nước chỉ thu hồi được hơn 4.600 tỷ, chiếm chưa đến 10%. Ông Cường khẳng định sự đối lập của các con số trên thể hiện sự lỏng lẻo cũng như những kẽ hở nghiêm trọng của cơ quan nhà nước trong vấn đề tịch thu tài sản tham nhũng.
“Chúng ta còn nhiều bất cập, tồn tại để cho những kẻ xấu lợi dụng, tẩu tán tài sản.
Thứ nhất, khi đối tượng rơi vào nhóm đối tượng nghi vấn tham ô, tham nhũng tài sản chúng ta không có cách nào để kiểm soát tài sản. Chỉ khi cá nhân nào đó đã là tội phạm, bị truy tố thì cơ quan chức năng mới kiểm soát tài sản. Theo tôi chỉ cần rơi vào nhóm  nghi vấn là chúng ta phải tiến hành các biện pháp kiểm soát ngay.
Ngoài ra, các cơ quan, đoàn thể hàng năm đều tiến hành kê khai tài sản của cán bộ nhưng động thái kiểm soát quá trình kê khai đó chúng ta cũng làm chưa đạt.
Thứ hai, trong trường hợp đã xác định được đối tượng tình nghi là tội phạm thật sự, cơ quan chức năng sẽ tiến kê biên tài sản. Tuy nhiên vào thời điểm này đối tượng đó đã tẩu tán tài sản cho những người thân trong gia đình, có thể là vợ chồng ly dị, con cái cho ở riêng. Tôi cho rằng tất cả tài sản của những người thân, dù đã ở riêng hay li dị đều liên quan đến quá trình hình thành nên tham nhũng đều phải thuộc đối tượng phải kê biên tài sản và kiểm soát tài sản. Tuy nhiên lâu nay chúng ta không chú trọng điều này”, ông Cường phân tích.
Một vấn đề khác được ĐBQH Hoàng Văn Cường nhắc đến là tình trạng “hi sinh đời bố củng cố đời con” diễn ra khá phổ biến thời gian qua.
Theo ông Cường, để làm điều này, nhiều lãnh đạo, cán bộ sẵn sàng tham nhũng, chấp nhận đi tù nhưng đổi lại có được tài sản. Việc này nếu kéo dài sẽ khiến bộ máy công quyền bị lũng đoạn, nền kinh tế của quốc gia bị kiệt quệ.
“Cán bộ tham nhũng đi tù là do làm thất thoát tài sản của nhà nước. Đây là tổn hại người đó gây ra cho xã hội nhưng theo tôi món nợ với xã hội họ phải chịu trách nhiệm suốt đời.
Trong trường hợp ông Dương Chí Dũng, không phải chúng ta chỉ dựa vào kết luận của Cục Thi hành án dân sự mà bỏ qua hết việc ông này phải trả thêm 88,5 tỷ đồng làm thất thoát của nhà nước.
Nếu ông Dương Chí Dũng bị tử hình thì những người trực tiếp có liên quan đến ông này, chẳng hạn như vợ ông Dũng phải chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ trả nợ. Với con cái ông Dũng hiện đều có cuộc sống riêng nên chúng ta chỉ cần xem xét, tìm hiểu nguồn gốc tài sản được hình thành từ trước đến này. Nếu họ không chứng minh được tài sản có nguồn gốc rõ ràng thì nhà nước sẽ phải thu hồi để bổ sung vào ngân sách nhà nước. Trong trường hợp tài sản công khai, rõ ràng thì nên tạo điều kiện cho họ”, ông Cường nhấn mạnh.
Vị ĐBQH Hà Nội cũng nhắc đến câu chuyện phòng chống tham nhũng tại Singapore. Ông Cường cho rằng quốc gia này đã thực hiện kiểm tra, giám sát các hiện tượng tiêu cực trong tham ô tài sản rất tốt khiến cán bộ “không thể, không dám và không muốn tham nhũng”.
Để giải quyết tình trạng nhức nhối trên tại Việt Nam, ông Cường khẳng định chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo mô hình chặt chẽ của nước bạn để áp dụng vào thực tế.
“Chúng ta cần phải có chế độ kiểm soát chặt chẽ với tài sản của cán bộ, công chức. Khi phát hiện ai đó tham nhũng thì ngoài truy cứu trách nhiệm bản thân đối tượng cần xét tài sản của những những người xung quanh. Cơ quan nhà nước nên đưa ra khung hình phạt thật nặng, gắn với trách nhiệm cá nhân để nâng cao tính tự giác.
Thứ hai nữa, chúng ta cũng cần đưa ra những chế độ hợp lý để cán bộ, công chức, lãnh đạo thấy được không cần tham nhũng vẫn có thể nuôi sống được gia đình, người thân”, ông Cường nhấn mạnh.
Truy tố, xét xử 12 đại án trong năm 2017. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng được thống nhất cao, tại cuộc họp Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì hôm qua (17.4) ở Hà Nội.
Tại cuộc họp này, Thường trực Ban Chỉ đạo (BCĐ) T.Ư về phòng, chống tham nhũng đã thảo luận, cho ý kiến về tiến độ, kết quả, khó khăn, vướng mắc trong xác minh, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ việc, vụ án thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo; cho ý kiến chỉ đạo xử lý, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xác minh, xử lý các vụ việc thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo; thống nhất kế hoạch kết thúc điều tra, truy tố, xét xử 12 vụ án thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo trong năm 2017; thảo luận, cho ý kiến về kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm tại một số địa phương.
Thường trực BCĐ hoan nghênh Đảng ủy Công an T.Ư, Ban Cán sự Đảng Viện KSND tối cao, Ban Cán sự Đảng TAND tối cao đã phối hợp chặt chẽ với Ban Nội chính T.Ư chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng T.Ư và địa phương nỗ lực, cố gắng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo, nhất là đã khẩn trương xét xử sơ thẩm đối với 3 vụ án với các mức án nghiêm minh, được dư luận đồng tình ủng hộ (trong đó 2 bị cáo bị tuyên án tử hình, 1 bị cáo án tù chung thân, 10 bị cáo tù có thời hạn từ 20 tháng đến 24 năm tù).
Các cơ quan tiến hành tố tụng đã tích cực điều tra, khởi tố 11 bị can về các tội “tham ô tài sản”, “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí VN (PVC), trong đó riêng Trịnh Xuân Thanh bị khởi tố về cả 2 tội; có nhiều cố gắng trong việc điều tra, xử lý giai đoạn 2 các vụ án thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo, nhất là giai đoạn 2 vụ án Phạm Công Danh và giai đoạn 2 vụ án Hà Văn Thắm.
Thường trực BCĐ yêu cầu các cơ quan chức năng tiếp tục nỗ lực, cố gắng, tích cực, chủ động trong phối hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xác minh, xử lý các vụ việc thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo.
Trọng tâm là khẩn trương điều tra bổ sung, truy tố, hoàn thành việc xét xử sơ thẩm 3/6 vụ án còn lại theo Thông báo số 30-TB/BCĐTW của BCĐ theo tiến độ đã được thống nhất tại cuộc họp (vụ án Hà Văn Thắm và đồng phạm, giai đoạn 1; vụ án Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm, phần hội đồng xét xử phúc thẩm hủy, yêu cầu điều tra, xét xử lại; vụ án Nguyễn Việt Hoàng và đồng phạm); sớm kết thúc điều tra, xử lý giai đoạn 2 các vụ án thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo theo tiến độ đã được thống nhất tại cuộc họp; tập trung lực lượng điều tra mở rộng vụ án xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí VN (PVC); truy bắt, dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước phục vụ điều tra, xử lý vụ án.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng BCĐ, cơ bản nhất trí với nhận định, đánh giá tình hình, những công việc sắp tới phải làm, mốc thời gian và tiến độ thực hiện.
Tổng bí thư đánh giá cao sự cố gắng nỗ lực của các cơ quan chức năng, các thành viên trong BCĐ, Thường trực BCĐ, nghiêm túc triển khai các công việc và đạt được kết quả cụ thể, rõ rệt. Hàng loạt công việc đang được triển khai đồng bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan nhuần nhuyễn hơn, một số khâu trước đây còn yếu (giám định, điều tra) đã được chấn chỉnh.
Tuy nhiên, Tổng bí thư chỉ rõ khối lượng công việc trước mắt còn nhiều, tiến độ nói chung còn chậm, còn một số vướng mắc ở khâu giám định, xác định tội danh, sự phối hợp giữa các cơ quan chưa nhuần nhuyễn, một số việc chưa thật thống nhất cao, trong xử lý một số công việc chưa thật khớp. Nguyên nhân là công việc nhiều, thời gian eo hẹp, nhận thức quan điểm có việc khác nhau, phải cố gắng từng bước khắc phục.
“Cơ bản nhất là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của BCĐ, bảo đảm tính chính trị, trên cơ sở pháp luật, phải xem xét bản chất vấn đề, thực sự công tâm, trong sáng, khách quan. Cho nên các cơ quan phải thống nhất với nhau, lắng nghe, tôn trọng nhau, không thể anh nào biết anh ấy, “cua cậy càng, cá cậy vây” là không được.
Trong một loạt vụ đưa ra sắp tới, cần chọn một số vụ làm cho bằng được, bảo đảm tiến độ và chất lượng, với quyết tâm và động cơ trong sáng, tăng cường phối hợp tốt hơn nữa”, Tổng bí thư nhấn mạnh.
Cũng tại cuộc họp, Thường trực BCĐ đồng ý kế hoạch và quyết định thành lập 8 đoàn công tác của BCĐ tiến hành kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm tại 20 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đắk Nông, Kon Tum, Vĩnh Long, Ninh Thuận, Trà Vinh, Sóc Trăng.
Thường trực BCĐ cũng nhất trí phân công Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ, Phó trưởng BCĐ Trương Hòa Bình tham gia chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý một số vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. đầu trang(

MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
Huyện Ân Thi - Hưng Yên: Bước đột phá mới trong phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù có nhiều hecta đất phải thu hồi, liên quan đến nhiều hộ gia đình nhưng tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội của huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên vẫn luôn được giữ vững.
Tuy nhiên, do cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập nên huyện Ân Thi tiếp tục xây dựng giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), góp phần hình thành cơ sở hạ tầng vững chắc, tạo động lực cho huyện ngày càng phát triển theo hướng bền vững.
Được xác định là địa bàn trọng điểm sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên, thời gian qua, huyện Ân Thi đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Theo đó, Ân Thi đã đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, đưa giống mới có năng suất chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cũng như các mô hình quản lý hiện đại, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn.
Bên cạnh đó, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức gắn với đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Các cấp chính quyền từ huyện đến cơ sở đã thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, chỉ đạo đồng bộ các chương trình phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường hiệu lực của chính quyền trong quản lý đất đai, môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản; chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, giải phóng mặt bằng…
​​Xác định bồi thường, giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, ngay từ đầu năm 2017, Ban Thường vụ Thành ủy huyện Ân Thi đã chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện chủ đề năm 2017 là đẩy mạnh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Huyện đã tập trung chỉ đạo các cơ quan chức năng và các xã tích cực phối hợp với chủ đầu tư giải quyết vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của nhiều dự án cải tạo, nâng cấp, mở rộng, làm mới các tuyến đường giao thông theo kế hoạch. Đẩy mạnh làm đường giao thông nông thôn theo chương trình hỗ trợ xi măng năm 2016. Ban An toàn giao thông huyện phối hợp với các xã, thị trấn duy trì thường xuyên việc tuần tra, kiểm tra không để các trường hợp vi phạm hành lang giao thông tái vi phạm trở lại.
Xây dựng kế hoạch và có giải pháp cụ thể nhằm giải tỏa chợ tạm, chợ cóc, các bãi chứa kinh doanh vật liệu xây dựng lấn chiếm hành lang giao thông, các hàng quán kinh doanh lấn chiếm lòng, lề đường. Tăng cường công tác giám sát các công trình xây dựng trên địa bàn…
Để làm tốt công tác đền bù GPMB phục vụ dự án, ngay sau khi nhận được kế hoạch thực hiện dự án, huyện Ân Thi cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương đã họp bàn, thống nhất phương thức tiến hành triển khai.
Trong đó, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai, xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; mỗi cán bộ, đảng viên phải là người gương mẫu đi đầu trong việc chấp hành nghiêm các quy định về quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng.
Giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực chuyên môn của cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng; tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai, giải phóng mặt bằng nhằm hạn chế thấp nhất những sai sót xảy ra. Phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư, các đơn vị có liên quan đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các công trình.
Bên cạnh đó, tiếp tục quan tâm giải quyết dứt điểm các vướng mắc, đơn thư của nhân dân theo đúng thẩm quyền trong công tác giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, hoàn thành vượt bậc mục tiêu xây dựng và phát triển mà huyện đã đề ra.
Trao đổi với chúng tôi, ông Mai Văn Giới, Chủ tịch UBND huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên cho biết: Địa phương cũng gặp khó khăn trong vận động di dời về công tác giải phóng mặt bằng đất đai, xây dựng. Bởi lẽ đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân, nếu không khéo léo trong vấn đề tuyên truyền giải thích thì rất khó có thể nhận được sự đồng tình ủng hộ của bà con. Tuy nhiên, với sự vào cuộc tích cực của lãnh đạo xã các ban, ngành đoàn thể từ xã tới các khu dân cư trong việc tuyên truyền vận động, toàn bộ các hộ dân đã vui vẻ chấp hành nhận tiền đền bù di dời, bàn giao mặt bằng sạch cho đơn vị thi công.
Với cách làm khéo léo, kiên trì và vận dụng linh hoạt các hình thức vận động, tuyên truyền nên dù có số diện tích phải giải phóng mặt bằng lớn, số hộ dân phải di dời ra khu tái định cư nhiều nhưng huyện Ân Thi đã sớm hoàn thành nhiệm vụ được giao, trở thành điểm sáng về công tác giải phóng mặt bằng, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội huyện.
Tích tụ đất đai: Phải đặt lợi ích của nông dân lên hàng đầu. Những giải pháp tích tụ đất đai, phát triển nền nông nghiệp lớn đều phải có mục tiêu chung là vì quyền lợi của người nông dân.
Phát biểu tại Hội nghị về giải pháp tích tụ, tập trung đất đai phục vụ phát triển nông nghiệp quy mô lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tổ chức tại Vĩnh Phúc mới đây, Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi trường Trần Hồng Hà nhấn mạnh: Những giải pháp tích tụ đất đai tập trung vào phát triển nền nông nghiệp lớn đều phải có mục tiêu là vì quyền lợi của nông dân, phải bảo vệ được người nông dân.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, cách đây hơn 30 năm, bắt đầu từ chủ trương khoán 10, chính sách giao đất ổn định lâu dài góp phần giải phóng sức lao động, tạo bước chuyển biến cơ bản trong sản xuất nông nghiệp và xã hội nông thôn. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo, nông sản lớn của thế giới. Trước yêu cầu đổi mới và hội nhập sâu rộng, chính sách, pháp luật đất đai về cơ bản đã được hoàn thiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Chính sách, pháp luật khuyến khích, hỗ trợ đã tạo điều kiện cho người sử dụng đất tập trung, tích tụ đất đai theo quy mô lớn và yên tâm hơn trong việc đầu tư vào đất đai, bước đầu thu hút được một số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp... Thực tế đã có nhiều mô hình và phương thức thực hiện có hiệu quả, đóng góp tích cực cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà “điểm danh” một số mô hình liên kết sản xuất kinh doanh tạo đã thành công với các cánh đồng mẫu lớn ở An Giang, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp kinh tế hộ cũng phát triển mang lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương như Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nội...
Theo lãnh đạo ngành tài nguyên môi trường, cần có đánh giá về các mô hình hiện nay đã tập trung được đất đai và thu hút được doanh nghiệp sản xuất để thấy được những mặt mạnh, những mặt yếu, những cản trở…, để từ đó đưa ra những chính sách, những giải pháp nhằm đem lại hiệu quả của việc tích tụ đất đai.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng chỉ ra rằng, quá trình tích tụ, tập trung đất đai diễn ra còn chậm, đất đai manh mún đang là yếu tố làm chậm tiến trình chuyển dịch nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, giảm hiệu quả sử dung đất, năng suất lao động mà theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng ADB cho thấy sản lượng nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Indonesia và chưa bằng 1/2 so với Thái Lan và Philippines…
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng lý luận trung ương cho biết, hiện nay có xu hướng một số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là đúng theo quy luật kinh tế, bản thân người nông dân tự “bơi” thì không bao giờ thoát khỏi kinh tế nhỏ.
Nếu nông nghiệp cứ quy mô nhỏ như hiện nay, kinh tế hộ vẫn nhỏ lẻ thì chủ trương tích tụ ruộng đất là đúng, PGS.TS Nguyễn Văn Thạo nêu quan điểm.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, nguyên nhân của tình trạng chậm tích tụ là do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn diễn ra chậm; một số chính sách, pháp luật đất đai chưa thúc đẩy tích tụ như đối với hộ gia đình, cá nhân.
Quy định hạn mức nhận chuyển quyền đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản của hộ gia đình, cá nhân tại Điều 130 Luật đất đai chưa khuyến khích tích tụ để phát triển những trang trại sản xuất hàng hóa quy mô lớn, cá nhân nhận chuyển quyền vượt hạn mức là hành vi pháp luật nghiêm cấm và phần diện tích đất vượt hạn mức bị từ chối nhận thế chấp khi vay vốn ngân hàng… Bộ trưởng đặt vấn đề liệu đây có phải là “rào cản” hay không, nếu đúng như vậy, cần phải xem xét để hoàn thiện chính sách.
Bên cạnh đó, đối với nhà doanh nghiệp, mặc dù không có quy định hạn mức giao và nhận chuyển nhượng nhưng quyền tiếp cận đất nông nghiệp của doanh nghiệp còn gặp khó khăn do quy định tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất có rừng phòng hộ của hộ gia đình, cá nhân trừ trường hợp được chuyển mục đích theo quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt.
Luật đất đai hạn chế các trường hợp Nhà nước thu hồi để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong khi đó mặc dù có cơ chế tự thỏa thuận nhận chuyển nhượng nhưng nhiều trường hợp do chưa có sự đồng thuận cao của người sử dụng đất nên không thể tích tụ, tập trung đất đai. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế về các hình thức tiếp cận đất nông nghiệp so với doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, chính sách thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp áp dụng chung như các bất động sản khác, còn tương đối cao so với lợi nhuận có thể tạo ra từ sản xuất nông nghiệp. Việc xử lý đối với các trường hợp chậm đưa đất vào sử dụng chưa được thực hiện nghiêm trên thực tế. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp phát triển kém; còn tình trạng nông dân mặc dù không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn giữ đất…
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, tích tụ, tập trung ruộng đất hình thành những cánh đồng lớn cùng với những giải pháp khác là yêu cầu, là đòi hỏi và là một trong những động lực cho tái cơ cấu nền nông nghiệp. Tuy nhiên, ưu tiên hàng đầu là phải đảm bảo đời sống, sinh kế ngày một tốt hơn cho nông dân, để nông dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển, tích tụ và tập trung. Cần đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế để chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn…
Đề cập đến thực tế, việc tích tụ và cập trung mà chúng ta không chú ý đến lợi ích của người nông dân và tính phù hợp của lực lượng lao động ở nông thôn thì việc thực hiện tích tụ rất khó khả thi, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp, người nhận chuyển nhượng, nhận thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp tổ chức đào tạo nghề và khuyến khích người nông dân tham gia vào công việc này để họ vào làm việc để có thu nhập và sinh kế tốt hơn.
PGS.TS Trần Thị Minh Châu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng của nông nghiệp. Nếu không tiếp cận được một quy mô đất hiệu quả, các doanh nghiệp và bản thân các trang trại, hộ gia đình không thể kinh doanh hiệu quả, nhưng có một quy mô lớn thì chưa chắc có hiệu quả. Nếu có thể tích tụ, tập trung ruộng đất được, thì đó chỉ là tiền đề cho nông nghiệp, không phải cái quyết định cho nông nghiệp hiệu quả.
Vì vậy, theo PGS.TS Trần Thị Minh Châu, nếu đặt vấn đề nông nghiệp lên quy mô lớn hiện đại hóa nông nghiệp chỉ đặt vấn đề tích tụ, tập trung thì không phải vấn đề giải quyết căn bản. Không phải quy mô nhỏ là không áp dụng được cơ giới, giống mới, tiến bộ kỹ thuật, vấn đề là lợi ích của người nông dân.
Vị chuyên gia này phân tích: Khi đưa ra giải pháp tích tụ, tập trung đất đai phải đứng trên lợi ích của người nông dân. Một gia đình người nông dân thì bố có thể làm thợ phụ hồ, có thể vào thành phố làm xe ôm nhưng người vợ và các con không thể vào thành phố, phải ở nhà làm mấy sào ruộng để làm sao cả gia đình còn có cơm ăn, rau ăn, và người bố không lo lắng vợ con không bị chết đói và chấp nhận công việc trôi nổi ở thành phố để kiếm thêm tiền mua áo quần, đóng học cho con. Đấy là vấn đề an ninh tối thiểu trong nông nghiệp.
Với quan điểm trên, PGS.TS Trần Thị Minh Châu kiến nghị mở rộng hạn điền, nhưng vẫn giữ mức hạn điền nhất định để duy trì một nền nông nghiệp trực canh, để bảo bảo người có tiền không mua đất để ẩn dấu tài sản.
Nhân rộng các mô hình khởi nghiệp. Chia sẻ kinh nghiệm vận hành và nhân rộng mô hình thúc đẩy kinh doanh ra các vườn ươm, các trung tâm ươm tạo khởi nghiệp; cung cấp kiến thức, kỹ năng và mạng lưới giúp người tham gia có được nền tảng vững chắc khi hỗ trợ, đầu tư vào Startup;…
Đó là những mục tiêu chính của Chương trình VSV Investor Bootcamp do Vietnam Silicon Valley (VSV) tổ chức mới đây.
VSV Investor Bootcamp 2017, với mục tiêu chia sẻ kinh nghiệm vận hành và nhân rộng mô hình thúc đẩy kinh doanh ra các vườn ươm, các trung tâm ươm tạo khởi nghiệp; cung cấp kiến thức, kỹ năng và mạng lưới để giúp người tham gia có được nền tảng vững chắc khi hỗ trợ, đầu tư vào startup nhằm tăng cao tỷ lệ lợi nhuận từ các khoản đầu tư, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp; tăng cường tính liên kết và kết nối mạng lưới các cố vấn, các nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách với các trung tâm ươm tạo nhằm tạo môi trường lý tưởng nhất cho xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam.
Ông Đặng Huy Đông - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Chương trình có ý nghĩa rất quan trọng giúp nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và cách triển khai, phát triển các hệ sinh thái khởi nghiệp. Đây là một hoạt động đã hiện thực hóa Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” và góp phần rất quan trọng cho việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp.
Thông qua chương trình VSV Investor Bootcamp với thông điệp “Be Master with VSV - Trở nên chuyên nghiệp hơn cùng VSV”, các chuyên gia đã truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, bí quyết và kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng, quản lý và điều hành Tổ chức Thúc đẩy kinh doanh (Accelerator). Trong đó, giá trị cốt lõi của tổ chức này là phương pháp cố vấn chuyên nghiệp để doanh nghiệp có thể “startup” và nhà đầu tư có khả năng tăng giá trị các khoản đầu tư lên gấp nhiều lần trong ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
Thông tin về đề án “Hỗ trợ Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” được Thủ tướng phê duyệt vào tháng 5/2016, Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp khoa học công nghệ Trần Xuân Đích cho biết, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã triển khai nhiều nội dung của đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Quá trình triển khai, đề án đã có những kết quả bước đầu khi số lượng doanh nghiệp, quỹ đầu tư đều tăng nhanh chóng.
Theo số liệu công bố tại Phiên họp thường kỳ tháng 3 của Chính phủ, trong quý I/2017 cho thấy, cả nước có thêm 26.478 doanh nghiệp thành lập mới, con số cao nhất trong 6 năm trở lại đây, con số được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Đây chính là kết quả của tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ mà Chính phủ đã phát động kể từ đầu năm 2016.
Theo ông Bùi Thế Duy, Chánh Văn phòng Bộ KH&CN, cộng đồng, doanh nghiệp tư nhân và cá nhân đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Nhà nước chỉ thực hiện định hướng và hỗ trợ đầu tiên, đặc biệt là trợ giúp đào tạo về năng lực. Việc hỗ trợ đào tạo chia ra làm các nhóm, cụ thể: Nhóm hỗ trợ các trường đại học thành lập câu lạc bộ khởi nghiệp để đào tạo sinh viên về marketing, quản trị doanh nghiệp, giới thiệu và phát triển sản phẩm, có năng lực nhất định trong khởi nghiệp và nhóm hỗ trợ đào tạo các tổ chức thúc đẩy khởi nghiệp và các nhóm đầu tư. đầu trang(

TRÁI KHOÁY
Theo thông tin trên báo chí, ngày 17-4, ông Bùi Minh Hồng, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Vĩnh Phúc, cho biết UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã giao Sở KH&ĐT thanh tra việc chi 65 tỉ đồng để mua quà tặng cho người dân và quan khách dịp kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh này.
Thông tin trên báo điện tử VNE cho hay nguồn tiền mua sắm quà chủ yếu từ ngân sách nhà nước và một phần xã hội hóa.
Chưa biết đúng sai trong việc này như thế nào nhưng rõ ràng con số 65 tỉ đồng nói trên khiến dư luận giật mình. Bởi mới chỉ tính phần quà tặng mà đã lên chừng ấy tiền thì số thực chi cho toàn bộ hoạt động của lễ kỷ niệm này chắc chắn không hề nhỏ.
Thử làm một phép tính đơn giản, lấy phần quà tặng mà Vĩnh Phúc đã chi này đem nhân với 63 tỉnh, thành thì con số ấy đã lên đến khoảng 3.900 tỉ đồng. Vậy con số thực chi cho tất cả lễ kỷ niệm thành lập tỉnh, tái lập tỉnh… là bao nhiêu hằng năm?
Mà ở đất nước chúng ta, một năm đâu chỉ có lễ tái lập, thành lập tỉnh mà còn bao nhiêu thứ lễ, hội nghị, khánh tiết… khác. Cứ mỗi thứ mỗi tiền, mỗi thứ mỗi chi ngân sách thì ôi hỡi cao xanh ơi, ngân khố nào chịu thấu?
Trong bối cảnh ngân sách đang eo hẹp, đất nước đang phải đi vay nợ để bù đắp bội chi thì mỗi đồng tiền ngân sách xài vào những hoạt động mà không sản sinh ra giá trị mới nghe “xót xa như rụng bàn tay”.
Đáng lẽ đứng trước tình hình ấy, các quan đầu tỉnh phải tính toán rất kỹ khi bỏ một đồng ngân sách vào việc gì. Bởi lãng phí một đồng là tốn của quốc gia một khối. Bởi đó không chỉ là tiền mà còn là cái nhìn của dân chúng về cách chi xài của chính quyền khi dân là người nộp thuế. Đã có chuyên gia từng nói rằng “Sao xứ ta nghèo mà xài sang thế!”.
Đáng tiếc là có không ít nơi cứ xài tiền công như bông hoa giấy. Thay vì họ nhìn ra những bất ổn trong cách tiêu tốn của mình thì họ ít mảy may nghĩ tới chuyện đó, thậm chí trong không ít sự vụ khác có cán bộ còn tìm thấy nơi đó “cơ hội” để bòn rút từ ngân sách.
“Phấn đấu tiết kiệm tối thiểu 12% các khoản kinh phí chi hội nghị, hội thảo, tọa đàm, họp, chi tiếp khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm”. Đọc mấy dòng mục tiêu ấy trong chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2017 do Thủ tướng ban hành còn chưa ráo mực mà cứ thấy nao lòng… (Pháp Luật TP.HCM 18/4) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Quý I/2017: Trung Quốc xử lý kỷ luật 85.000 cán bộ, đảng viên. Tân Hoa Xã ngày 18/4 dẫn thông tin từ Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCDI) cho biết trong quý Một, cơ quan kiểm tra kỷ luật các cấp trên toàn quốc đã tiếp nhận 623.000 lượt đơn thư tố cáo và tiến hành xử lý kỷ luật đối với 85.000 cán bộ, đảng viên.
Trong  số cán bộ, đảng viên bị kỷ luật có 14 lãnh đạo cấp tỉnh và cấp bộ, trên 400 cán bộ cấp sở/cục thuộc tỉnh và hơn 3.500 cán bộ cấp phòng ở các huyện, 13.000 cán bộ cấp thôn xã.
Theo CCDI, trong số 85.000 đối tượng bị xử lý kỷ luật nói trên có 71.000 trường hợp là đảng viên.
Trung Quốc thanh lọc ngành tài chính. Ngành công nghiệp tài chính được xem là nơi ẩn náu của các “thái tử đảng” và người quản lý tài sản cho họ
Một cơn bão đang kéo đến trong ngành công nghiệp tài chính Trung Quốc khi Chủ tịch Tập Cận Bình nỗ lực ngăn chặn sự cấu kết giữa các nhà quản lý, tài phiệt tư nhân và thành viên các gia đình quan chức cấp cao trước thềm Đại hội lần thứ 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc (gọi tắt là Đại hội Đảng 19), dự kiến diễn ra vào cuối năm 2017.
Chứng kiến sự hỗn loạn của thị trường chứng khoán vào năm 2015, ông Tập đang chuyển sự tập trung của cuộc chiến chống tham nhũng sang giới tài chính, nơi tràn ngập các giao dịch dùng tiền mua quyền. Ông cũng quan tâm đến những rủi ro tài chính tiềm ẩn, đe dọa tăng trưởng và an ninh quốc gia. Vụ việc mới nhất liên quan đến ông Hạng Tuấn Ba, cựu Chủ tịch Ủy ban Giám sát bảo hiểm Trung Quốc (CIRC).
Theo nhận định của tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (SCMP), thông tin ông Hạng bị điều tra vì tham nhũng hồi đầu tháng 4 có thể báo trước một giai đoạn mới trong quá trình “làm trong sạch” lĩnh vực tài chính. Bình luận về vụ việc, tài khoản mạng xã hội của tờ Nhân dân Nhật báo cho rằng kịch hay còn ở phía trước.
Ông Trang Đức Thủy, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về liêm chính trong chính phủ thuộc Trường ĐH Bắc Kinh, nhận định ngành công nghiệp tài chính là thành trì của các nhóm lợi ích Trung Quốc và ông Tập quyết tâm phá vỡ nó. Trong khi đó, GS Hồ Tinh Đẩu đánh giá tài chính là một trong những lĩnh vực có nhiều vụ tham nhũng nhất ở Trung Quốc vì lợi ích béo bở. Chưa hết, ngành công nghiệp này cũng được xem là nơi ẩn náu của các “thái tử đảng” và người quản lý tài sản cho họ - những đối tượng mà ông Tập muốn kiềm chế.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát thắc mắc liệu Bắc Kinh có thể giải quyết hiệu quả các rủi ro tài chính thông qua việc bắt giữ và tịch biên hay không. Ông Trương Lập Phàm, nhà bình luận chính trị tại Bắc Kinh, cho rằng chiến dịch trấn áp nói trên có thể khiến tầng lớp tinh hoa lắm tiền nhiều của chạy khỏi Trung Quốc.
Một nỗi lo khác của Bắc Kinh trước thềm Đại hội Đảng 19 là sự bùng phát trở lại của “ngân hàng ngầm” - một tác dụng phụ ngoài ý muốn của chiến dịch siết chặt tín dụng. Theo số liệu từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC), các khoản tài trợ vốn ngoài bảng tăng lên mức 754 tỉ nhân dân tệ (109 tỉ USD) trong tháng 3-2017. Như vậy, riêng trong quý I năm nay, các khoản tài trợ vốn ngoài bảng đạt mức kỷ lục 2.050 tỉ nhân dân tệ.
Tài trợ vốn ngoài bảng là cách thức tài trợ vốn mà theo đó, các khoản chi lớn của công ty được để ở ngoài bảng cân đối kế toán thông qua một số phương pháp phân loại sắp xếp tài sản. Theo chuyên gia Hứa Cao của Công ty Chứng khoán Everbright, nỗ lực của PBOC nhằm hạn chế cho vay mới có thể đã thúc đẩy người mượn tiền, đặc biệt là các nhà đầu tư bất động sản, tìm kiếm những phương thức vay tiền thay thế.
Kể từ cuối năm 2016, PBOC và các cơ quan quản lý đã thực hiện nhiều chính sách để hạn chế rủi ro đối với hệ thống tài chính, như nâng lãi suất cho vay ngắn hạn, thắt chặt quy định cho vay bất động sản… Tuy nhiên, những chính sách này lại khiến “ngân hàng ngầm” hoạt động mạnh mẽ hơn. Theo hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s, các hoạt động “ngân hàng ngầm” của Trung Quốc có giá trị khoảng 8.500 tỉ USD. Một báo cáo hồi tháng 3 của Moody’s cảnh báo vai trò ngày càng tăng của “ngân hàng ngầm” trong nguồn cung cấp tài chính, từ đó khiến hệ thống tài chính có nguy cơ thêm tổn thương trước các cú sốc liên quan đến bất động sản.
Một mối nguy lớn không kém đến từ các sản phẩm tài chính mơ hồ và ít chịu sự giám sát, quản lý của luật pháp. Giới truyền thông Trung Quốc gần đây đưa tin khoảng 400 triệu USD tiền của các nhà đầu tư tại chi nhánh ở Bắc Kinh của Ngân hàng Trung Quốc Dân sinh đã “bốc hơi”. Thông tin này khiến hàng chục khách hàng tập trung tại chi nhánh này hôm 19-4 để đòi ngân hàng trả lại tiền cho mình.
Theo tờ The New York Times, các khoản đầu tư trên, gọi là sản phẩm quản lý tài sản, thường để ngoài bảng cân đối kế toán của ngân hàng, góp phần vào sự trỗi dậy của ngân hàng ngầm. Thống kê cho thấy các nhà đầu tư đã rót 4.400 tỉ USD vào sản phẩm quản lý tài sản, trong đó nhiều khoản đầu tư tập trung vào các ngành than đá, thép và bất động sản đang đối mặt vấn đề dư thừa công suất. Đã xuất hiện nỗi lo rằng nếu những khoản đầu tư này thất bại, kinh tế Trung Quốc sẽ thiệt hại không nhỏ. ./. đầu trang(