Xem ngày trước
BẢN TIN TỔNG HỢP
Xem ngày kế tiếp

Ngày 20 tháng 05 năm 2017
CHÍNH SÁCH MỚI
TIÊU ĐIỂM
PHÁT NGÔN NÓNG
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
TRÁI KHOÁY
NHÌN RA THẾ GIỚI

CHÍNH SÁCH MỚI
Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng. Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng.
Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng là vấn đề cấp bách hiện nay, vì bên cạnh cơ hội được tiếp cận với nguồn thông tin phong phú trên mạng, thì mặt trái của nó là khi trẻ em tham gia vào môi trường mạng có nguy cơ chịu nhiều rủi ro và bị xâm hại nhiều hơn như: Bị tiết lộ thông tin thuộc bí mật cá nhân và bị sử dụng thông tin cá nhân vào các mục đích xấu, dễ bị lôi kéo, kích động để vi phạm pháp luật, bị xâm hại tình dục, bóc lột và lừa đảo qua các trò chơi trên mạng, bị tác động và ảnh hưởng tiêu cực từ những nguồn thông tin thiếu lành mạnh đến nhân cách và tinh thần của trẻ em.
Để hạn chế những rủi ro trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, doanh nghiệp, cộng đồng và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng.
Theo Nghị định, cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông; về giáo dục, đào tạo; về giáo dục nghề nghiệp; về trẻ em; các tổ chức hoạt động vì trẻ em; tổ chức hoạt động trên môi trường mạng có trách nhiệm truyền thông nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực, phổ biến kỹ năng cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, giáo viên, trẻ em và cơ quan, tổ chức có liên quan về lợi ích, tác động tiêu cực của môi trường mạng đối với trẻ em; về việc phòng ngừa, ngăn chặn hành vi xâm hại trẻ em trên môi trường mạng theo quy định của pháp luật về công nghệ thông tin, an toàn thông tin và các lĩnh vực có liên quan.
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm giáo dục kiến thức, hướng dẫn kỹ năng an toàn cho trẻ em khi tham gia môi trường mạng; trẻ em có bổn phận tìm hiểu, học kiến thức, rèn luyện kỹ năng tự bảo vệ mình khi tham gia môi trường mạng.
Tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải hướng dẫn việc sử dụng dịch vụ, sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin, tiếp cận thông tin để bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng.
Nghị định quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng phải phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em trên môi trường mạng; ngăn chặn thông tin gây hại cho trẻ em theo quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng.
Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải có biện pháp sử dụng dịch vụ bảo vệ người sử dụng là trẻ em.
Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải cảnh báo hoặc gỡ bỏ thông tin, dịch vụ gây hại cho trẻ em, thông tin, dịch vụ giả mạo, xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên môi trường mạng phải có công cụ kiểm soát thời gian, bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng lạm dụng, nghiện trò chơi điện tử.
Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải xây dựng hoặc sử dụng, phổ biến phần mềm, các công cụ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng.
Nghị định quy định rõ, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng và cá nhân khi đưa thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em lên mạng phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên; có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải sử dụng các biện pháp, công cụ bảo đảm an toàn về thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em, các thông điệp cảnh báo nguy cơ khi trẻ em cung cấp, thay đổi thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ và cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng xóa bỏ các thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em để bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Nghị định quy định cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông và quản lý nhà nước về trẻ em; tổ chức, doanh nghiệp hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận thông tin, đánh giá, phân loại mức độ an toàn cho trẻ em được các cơ quan, tổ chức, cá nhân và trẻ em gửi tới; công bố danh sách các mạng thông tin, dịch vụ, sản phẩm trực tuyến theo mức độ an toàn đối với trẻ em; bảo đảm việc phát hiện, loại bỏ các hình ảnh, tài liệu, thông tin không phù hợp với trẻ em.
Cơ quan công an có trách nhiệm tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ, can thiệp bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng.
Chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt sẽ được Nhà nước hỗ trợ chăm sóc sức khỏe; trợ giúp xã hội; giáo dục, đào tạo...
Nghị định nêu rõ, nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt gồm: Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ; trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em không nơi nương tựa; trẻ em khuyết tật; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ em nghiện ma túy;
Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em bị mua bán;
Trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc.
Những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhà nước đóng hoặc hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
Nhà nước trả hoặc hỗ trợ trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh hoặc giám định sức khỏe cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hưởng các chính sách chăm sóc sức khỏe khác theo quy định của pháp luật.
Nhà nước cũng có chính sách trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cụ thể, nhà nước thực hiện chế độ trợ cấp hằng tháng đối với cá nhân, gia đình nhận chăm sóc thay thế; hỗ trợ chi phí mai táng và chế độ trợ cấp, trợ giúp khác cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của pháp luật về chính sách trợ giúp xã hội.
Nhà nước hỗ trợ tiền ăn, ở, đi lại theo quy định của pháp luật về chính sách trợ giúp xã hội cho trẻ em bị xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang được bảo vệ khẩn cấp theo quy định.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập theo quy định của pháp luật giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp.
Ngoài ra, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hỗ trợ tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch vụ bảo vệ trẻ em khác theo quy định tại Điều 48, 49, 50 Luật trẻ em.
HSSV dân tộc thiểu số rất ít người được hỗ trợ học tập. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 57/2017/NĐ-CP quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người.
Đối tượng áp dụng là trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên thuộc 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người: Cống, Mảng, Pu Péo, Si La, Cờ Lao, Bố Y, La Ha, Ngái, Chứt, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Lô Lô, Lự, Pà Thẻn, La Hủ (dân tộc thiểu số rất ít người).
Về chính sách ưu tiên tuyển sinh, trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người được ưu tiên vào học tại các cơ sở giáo dục phù hợp theo nguyện vọng.
Cụ thể, trẻ mẫu giáo được học tại các trường mầm non; trường, lớp mẫu giáo công lập; học sinh tiểu học được học tại các trường phổ thông dân tộc bán trú, trường tiểu học; học sinh hoàn thành chương trình tiểu học được vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường trung học cơ sở; học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tuyển thẳng vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp và trung cấp; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông được xét tuyển thẳng vào học tại các trường, khoa dự bị đại học, các cơ sở giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Về chính sách hỗ trợ học tập, trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số rất ít người học tại các cơ sở giáo dục mầm non được hưởng mức hỗ trợ học tập bằng 30% mức lương cơ sở/trẻ/tháng.
Học sinh dân tộc thiểu số rất ít người học tại các trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông được hưởng mức hỗ trợ học tập bằng 40% mức lương cơ sở/học sinh/tháng.
Học sinh dân tộc thiểu số rất ít người học tại các trường phổ thông dân tộc bán trú hoặc là học sinh bán trú học tại trường phổ thông công lập có học sinh bán trú được hưởng mức hỗ trợ học tập bằng 60% mức lương cơ sở/học sinh/tháng.
Học sinh dân tộc thiểu số rất ít người học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú được hưởng mức hỗ trợ học tập bằng 100% mức lương cơ sở/học sinh/tháng.
Học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người học tại các trường, khoa dự bị đại học, các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được hưởng mức hỗ trợ học tập bằng 100% mức lương cơ sở/người/tháng.
Thời gian được hưởng hỗ trợ 12 tháng/năm cho đối tượng có thời gian học đủ 9 tháng/năm trở lên; trường hợp đối tượng học không đủ 9 tháng/năm thì được hưởng theo thời gian học thực tế.
Học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người học tại các trường, khoa dự bị đại học, các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nếu học đồng thời ở nhiều khoa trong cùng một cơ sở giáo dục hoặc học ở nhiều cơ sở giáo dục khác nhau thì chỉ được hưởng hỗ trợ một lần. Trường hợp học sinh, sinh viên bị ngừng học thì thời gian ngừng học không được hưởng hỗ trợ. Trường hợp học sinh, sinh viên bị buộc thôi học thì thôi hưởng chính sách hỗ trợ ngay sau khi thôi học.
Trường hợp trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ cùng tính chất thì chỉ được hưởng một chính sách với mức hỗ trợ cao nhất.
Các biện pháp quản lý giá thuốc. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 54/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật dược. Trong đó, Nghị định dành riêng Chương VIII để quy định cụ thể về các biện pháp quản lý giá thuốc.
Các biện pháp quản lý giá thuốc được quy định tại Nghị định 54/2017/NĐ-CP gồm: Kê khai, kê khai lại giá thuốc; niêm yết giá thuốc, quy định về thặng số bán lẻ của các cơ sở bán lẻ trong khuôn viên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; đấu thấu mua thuốc, đàm phán giá thuốc và các biện pháp bình ổn giá thuốc.
Nghị định nêu rõ, cơ sở kinh doanh dược có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quy định về kê khai, kê khai lại giá thuốc và các quy định khác về quản lý giá thuốc; chịu trách nhiệm trước pháp luật về giá kê khai, kê khai lại và tính chính xác của các số liệu, tài liệu báo cáo, thông tin do cơ sở cung cấp.
Cơ sở kinh doanh dược không được bán thuốc khi chưa có giá kê khai, kê khai lại được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế do chính cơ sở sản xuất hoặc cơ sở đặt gia công, cơ sở nhập khẩu thuốc đó đã kê khai, kê khai lại. Cơ sở kinh doanh dược không được bán buôn, bán lẻ thuốc cao hơn mức giá kê khai, kê khai lại được công bố.
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có văn bản thông báo cho cơ sở kinh doanh dược kiến nghị xem xét lại mức giá của mặt hàng thuốc do cơ sở đã kê khai, kê khai lại được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có văn bản của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, cơ sở phải có văn bản phản hồi kèm theo các tài liệu liên quan để thuyết minh về tính hợp lý của mức giá kê khai hoặc điều chỉnh giá kê khai, kê khai lại về mức hợp lý. Sau thời hạn trên, cơ sở không có văn bản phản hồi thì mức giá kê khai, kê khai lại đã công bố không còn giá trị và sẽ bị rút khỏi Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế.
Nghị định cũng yêu cầu các cơ sở bán buôn thuốc phải thực hiện việc niêm yết giá bán buôn từng loại thuốc tại nơi giao dịch hoặc nơi bán thuốc của cơ sở bán buôn thuốc. Các cơ sở bán lẻ thuốc phải thực hiện việc niêm yết giá bán lẻ từng loại thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc.
Cơ sở bán buôn, bán lẻ thuốc không được bán cao hơn giá do cơ sở đã niêm yết.
Về thặng số bán lẻ của cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn viên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Nghị định quy định:
Giá bán lẻ = Giá mua vào + Mức thặng số bán lẻ (%) × Giá mua vào.
Mức thặng số bán lẻ của các cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn viên các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cao hơn mức thặng số bán lẻ tối đa như sau:
Đối với thuốc có giá mua tính trên đơn vị đóng gói nhỏ nhất nhỏ hơn hoặc bằng 1.000 đồng, mức thặng số bán lẻ tối đa là 15%;
Đối với thuốc có giá mua tính trên đơn vị đóng gói nhỏ nhất từ trên 1.000 đồng đến 5.000 đồng, mức thặng số bán lẻ tối đa là 10%;
Đối với thuốc có giá mua tính trên đơn vị đóng gói nhỏ nhất từ trên 5.000 đồng đến 100.000 đồng, mức thặng số bán lẻ tối đa là 7%;
Đối với thuốc có giá mua tính trên đơn vị đóng gói nhỏ nhất từ trên 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng, mức thặng số bán lẻ tối đa là 5%;
Đối với thuốc có giá mua tính trên đơn vị đóng gói nhỏ nhất trên 1.000.000 đồng, mức thặng số bán lẻ tối đa là 2%.
Giao kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 547/QĐ-TTg giao kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 và danh mục dự án bố trí kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016 - 2020.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư căn cứ tổng số kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 và danh mục dự án, giao các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng mức kế hoạch cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng.
Bên cạnh đó, giao các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tổng kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 theo ngành, lĩnh vực, chương trình, dự phòng kế hoạch theo quy định của Luật Đầu tư công, danh mục và mức vốn kế hoạch bố trí cho từng dự án để chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án, bao gồm: Số vốn thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn ngân sách trung ương; thu hồi các khoản vốn ứng trước nguồn ngân sách trung ương của từng dự án theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ; đối ứng các dự án ODA nguồn ngân sách trung ương.
Đồng thời, giao các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng số vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, bao gồm: Vốn cân đối ngân sách địa phương, vốn ngân sách trung ương theo từng chương trình mục tiêu, dự phòng kế hoạch theo quy định của Luật Đầu tư công và Nghị quyết của Quốc hội, danh mục và mức vốn kế hoạch đầu tư ngân sách trung ương bố trí cho từng dự án để chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án, bao gồm: Số vốn thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn ngân sách trung ương; thu hồi các khoản vốn ứng trước nguồn ngân sách trung ương của từng dự án theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ; đối ứng các dự án ODA nguồn ngân sách trung ương.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020, danh mục dự án và kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016-2020 được giao thông báo cho các đơn vị danh mục và kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016-2020 cho từng dự án và bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp phân bổ và giao kế hoạch đầu tư trung hạn vốn cân đối ngân sách địa phương bảo đảm các nguyên tắc, tiêu chí: Việc phân bổ vốn phải phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 của quốc gia, ngành, lĩnh vực, địa phương, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực, vùng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Việc phân bổ vốn phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 và các văn bản liên quan.
Bố trí vốn đầu tư tập trung để khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải, dở dang, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; bố trí đủ vốn đối ứng các dự án ODA. Đồng thời, có giải pháp huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm, cần thiết, cấp bách, các chương trình mục tiêu, làm cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, có tính kết nối và lan tỏa vùng, miền.
Cam kết bố trí phần vốn còn thiếu từ nguồn ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để hoàn thành dự án được bố trí vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016 - 2020 đúng tiến độ. Trong trường hợp điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư của dự án so với tổng mức đầu tư đã được cấp có thẩm quyền giao kế hoạch đầu tư trung hạn, địa phương phải tự cân đối vốn bổ sung từ các nguồn vốn hợp pháp khác để hoàn thành dự án đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng; đối với nguồn vốn nước ngoài, phải tính toán, cân đối giữa nhu cầu vay và khả năng trả nợ của các dự án đã triển khai và các dự án mới.
Thứ tự ưu tiên trong phân bổ kế hoạch đầu tư vốn cân đối ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020: Bố trí đủ vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản; thu hồi các khoản ứng trước. Không bố trí vốn ngân sách nhà nước để thanh toán các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản phát sinh sau ngày 31/12/2014; bố trí vốn đối ứng cho dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài; vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư (PPP); bố trí vốn cho các dự án chuyển tiếp hoàn thành trong giai đoạn 2016 - 2020; sau khi bố trí đủ vốn theo thứ tự ưu tiên nêu trên, trường hợp còn vốn sẽ xem xét bố trí cho các dự án khởi công mới.
Ấn định lãi suất cho vay mua nhà ở xã hội 4,8%/năm. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ban hành Quyết định 630/QĐ-TTg về lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
Cụ thể, lãi suất cho vay ưu đãi tại Ngân hàng Chính sách xã hội đối với các đối tượng quy định tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội trong năm 2017 là 4,8%/năm (0,4%/tháng).
Định kỳ hàng năm, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện sơ kết, đánh giá; đề xuất, kiến nghị điều chỉnh lãi suất cho phù hợp.
Mức lãi suất được ấn định này còn thấp hơn mức 5% được áp dụng khi thực hiện gói tín dụng 30.000 tỷ đồng trước đây.
Đối tượng được vay vốn ưu đãi không đổi (được quy định tại các Khoản 1, 4, 5, 6 và 7 Điều 49 của Luật Nhà ở). Các đối tượng trên được vay tối thiểu là 15 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên. Trường hợp khách hàng có nhu cầu vay với thời hạn thấp hơn thời hạn cho vay tối thiểu thì được thỏa thuận với ngân hàng về thời hạn cho vay thấp hơn.
Trước đó, nhiều người lo ngại gói 30.000 tỷ đồng với lãi suất vay 5%/năm kết thúc, người thu nhập thấp sẽ không còn cơ hội mua nhà bởi lãi suất vay ở các ngân hàng thương mại được xác định là ngoài tầm với.
Vào tháng 6 năm ngoái, Chính phủ đã quyết định mức lãi suất cho vay ưu đãi nhà ở xã hội là 4,8%/năm tại Ngân hàng Chính sách xã hội, nhưng những người muốn vay vẫn khó có cơ hội tiếp cận. Nguyên nhân được cho là do Ngân hàng Chính sách xã hội yêu cầu người vay phải thực hiện gửi tiền tiết kiệm hàng tháng tại đây với thời gian gửi tối thiểu 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng tín dụng. Mức gửi hàng tháng tối thiểu bằng mức trả nợ.
Nguyên tắc đầu tư xây dựng cảng biển, luồng hàng hải. Tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư xây dựng cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu neo đậu, chuyển tải, luồng hàng hải phải tuân thủ các quy định tại Nghị định số 58/2017/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan của pháp luật.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 58/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam về quản lý hoạt động hàng hải bao gồm: Đầu tư xây dựng, khai thác cảng biển, luồng hàng hải, công trình hàng hải, báo hiệu hàng hải, thông báo hàng hải, hoạt động của hoa tiêu hàng hải và quản lý hoạt động của tàu thuyền tại cảng biển và trong vùng biển Việt Nam.
Về nguyên tắc đầu tư xây dựng, thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư cảng biển, luồng hàng hải, Nghị định quy định tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư xây dựng cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu neo đậu, chuyển tải, luồng hàng hải phải tuân thủ các quy định tại Nghị định số 58/2017/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan của pháp luật.
Việc đầu tư xây dựng cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu neo đậu, chuyển tải, luồng hàng hải phải phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển và các quy hoạch khác có liên quan đã được phê duyệt; trường hợp dự án đầu tư xây dựng cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu neo đậu, chuyển tải, luồng hàng hải có sự khác biệt so với quy hoạch phát triển cảng biển đã được phê duyệt, trước khi triển khai dự án, chủ đầu tư phải báo cáo và được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chấp thuận.
Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu neo đậu, chuyển tải chuyên dùng có trách nhiệm đầu tư xây dựng, thiết lập kết cấu hạ tầng cảng biển, luồng hàng hải chuyên dùng, khu nước, vùng nước trừ trường hợp luồng hàng hải công cộng, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, vùng quay trở hiện có tại khu vực đáp ứng được nhu cầu cho tàu thuyền hoạt động tại cảng chuyên dùng đó.
Việc quyết định chủ trương đầu tư cảng biển, bến cảng, cầu cảng và luồng hàng hải sử dụng nguồn vốn đầu tư công được thực hiện theo quy định của Luật đầu tư công.
Việc quyết định chủ trương đầu tư đối với cảng biển, bến cảng, cầu cảng và luồng hàng hải không thuộc trường hợp quy định trên được thực hiện theo quy định của Luật đầu tư. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư, phải có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Giao thông vận tải.
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị tăng cường phòng, chống xâm hại trẻ em. Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Chỉ thị nêu rõ, thời gian vừa qua, các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Để tăng cường giải pháp phòng, chống và xử lý kịp thời các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em, giảm tối đa các tổn hại và bảo đảm quyền, lợi ích của trẻ em, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ trẻ em, đặc biệt là việc phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em và kịp thời can thiệp, hỗ trợ cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức thực hiện tốt quy trình tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ, hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em; triển khai theo thẩm quyền việc hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại; rà soát, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Nội dung Chỉ thị nêu rõ, Bộ Công an chỉ đạo công an các cấp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; rà soát hồ sơ, xử lý dứt điểm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em đang tồn đọng, chưa xử lý kịp thời; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; hướng dẫn công an các cấp quy trình, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh đối với hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em; các biện pháp điều tra thân thiện đối với trẻ em, đặc biệt là trẻ em bị xâm hại tình dục; nâng cao năng lực, kỹ năng cho lực lượng công an các cấp về điều tra, xử lý tội phạm xâm hại trẻ em. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cá nhân che giấu, không thông báo, tố giác hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em hoặc thiếu trách nhiệm trong việc xử lý các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục, nhà trường thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em; rà soát các tiêu chuẩn trường học bảo đảm môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em; tăng cường giáo dục kiến thức về giới và kỹ năng phòng tránh bạo lực, xâm hại trẻ em cho giáo viên và học sinh; chủ động phát hiện các trường hợp học sinh có dấu hiệu bị bạo lực, xâm hại, thông báo, cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc xử lý, điều tra, bảo vệ trẻ em.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về giám định pháp y đối với trẻ em bị xâm hại tình dục, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời; chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ưu tiên tiếp nhận, điều trị, tư vấn chăm sóc sức khỏe cho trẻ em bị bạo lực, xâm hại; nâng cao năng lực, kỹ năng cho cán bộ y tế trong việc chăm sóc, tư vấn sức khỏe đối với trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; hướng dẫn gia đình kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em, trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí ưu tiên việc phổ biến kiến thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em; phát hiện, lên án các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em; bảo đảm quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
Xem xét điều chỉnh mức phí cảng biển Hải Phòng. Ngày 16/5/2017, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 5036, gửi các bộ ngành, UBND thành phố Hải Phòng và VCCI truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ về thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng cảng biển Hải Phòng.
Cụ thể, theo đề nghị của Bộ Tài chính ngày 04/04/2017 tại Công văn số 4515/BTC-CST; Đồng thời, căn cứ ý kiến của Bộ Tư pháp  tại Công văn số 1472/BTP-KTrVB ngày 3/5/2017; Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Công văn số 3482/BKHĐT-KCHTĐT ngày 26/4/2017, Bộ Công Thương tại Công văn số 3944/BCT-XNK ngày 8/5/2017, Bộ Giao thông vận tải tại Công văn số 4492/BGTVT-TC ngày 26/4/2017, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Công văn số 0966/PTM-PC.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ có ý kiến về việc sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng như sau:
Phó Thủ tướng giao UBND TP. Hải Phòng tổ chức rà soát, đánh giá việc thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu.
Tiến hành tổng hợp ý kiến, kiến nghị của các hiệp hội, doanh nghiệp và trình HĐND TP. Hải Phòng tại kỳ họp gần nhất để cân nhắc, xem xét điều chỉnh mức thu phí, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật phí, lệ phí và pháp luật khác có liên quan.
Đặc biệt, cần phải cân nhắc điều chỉnh mức phí để phù hợp với khả năng đóng góp và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam theo như chỉ đạo của Chính phủ tại các Nghị quyết số 19 và số 35.
Tại văn bản, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính thường xuyên theo dõi, giám sát các địa phương trong ban hành quy định về phí và lệ phí; kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện.
Đồng thời chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và cơ quan liên quan thường xuyên tổ chức họp báo, cung cấp các tài liệu, báo cáo về chính sách và việc thực hiện các quy định của pháp luật phí và lệ phí kịp thời, đầy đủ đến các cơ quan báo chí để thông tin rộng rãi tới doanh nghiệp và người dân.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí trong thông tin, tuyên truyền về chính sách phí và lệ phí nói chung và chính sách thu phí sử dụng công trình, kết cấu hạ tầng, công trình dịch  vụ, tiện ích công cộng khu vực cửa khẩu nói riêng, bảo đảm đúng với quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
Được biết trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã nhận được tờ trình từ Hội doanh nhân trẻ - Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam cùng nhiều các hiệp hội doanh nghiệp khác về việc xin tạm dừng Nghị quyết 148/2016-NQ-HĐND ngày 13/12/2016 của HĐND TP. Hải Phòng về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng công trình, kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng Hải Phòng. Theo các doanh nghiệp, thì mức phí được Hải Phòng áp dụng khá cao làm tăng chi phí, giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 61/2017/NĐ-CP quy định chi tiết việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn.
Trong đó, những trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu gồm: Khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty Quản lý tài sản không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán nợ về giá khởi điểm; khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường.
Phải thẩm định giá khởi điểm tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty Quản lý tài sản không thỏa thuận được với bên bảo đảm về giá khởi điểm.
Nghị định cũng quy định cụ thể việc sử dụng kết quả thẩm định giá để xác định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Theo đó, trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, Công ty Quản lý tài sản quyết định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi bán đấu giá lần đầu theo nguyên tắc giá khởi điểm không thấp hơn giá khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo kết quả thẩm định giá.
Trường hợp bán đấu giá khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không thành: Đối với bán đấu giá khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường, Công ty Quản lý tài sản quyết định giá khởi điểm của khoản nợ xấu. Trường hợp Công ty Quản lý tài sản quyết định giảm giá khởi điểm, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần đấu giá không thành liền trước đó.
Đối với bán đấu giá khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt, trong trường hợp tiếp tục bán đấu giá, Công ty Quản lý tài sản thỏa thuận lại với tổ chức tín dụng bán nợ về giá khởi điểm của khoản nợ xấu.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định tiếp tục bán đấu giá mà không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán nợ, Công ty Quản lý tài sản quyết định giá khởi điểm của khoản nợ xấu. Trường hợp Công ty Quản lý tài sản quyết định giảm giá khởi điểm, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần đấu giá không thành liền trước đó.
Đối với bán đấu giá tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, trong trường hợp tiếp tục bán đấu giá, Công ty Quản lý tài sản thỏa thuận lại với bên bảo đảm về giá khởi điểm của tài sản bảo đảm. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày quyết định tiếp tục bán đấu giá mà không thỏa thuận được với bên bảo đảm, Công ty Quản lý tài sản quyết định giá khởi điểm của tài sản bảo đảm. Trường hợp Công ty Quản lý tài sản quyết định giảm giá khởi điểm, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần đấu giá không thành liền trước đó.
Nghị định có hiệu lực từ 1/7/2017.
Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Chính phủ vừa ban hành Nghị định 60/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp luận cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công nghệ và xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ có trình độ cao theo quy định của pháp luật.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có nhiệm vụ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, các chương trình, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm, các dự án, đề án quan trọng của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt; tham gia thẩm định trình độ công nghệ, xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật các công trình trọng điểm, quan trọng của Nhà nước và của các địa phương theo sự phân công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ trong các lĩnh vực: Toán học; vật lý; hóa học; sinh học; công nghệ sinh học; công nghệ thông tin; điện tử, tự động hoá; công nghệ vũ trụ; khoa học vật liệu; đa dạng sinh học và các chất có hoạt tính sinh học; khoa học trái đất; khoa học và công nghệ biển; môi trường và năng lượng; dự báo, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;
Bên cạnh đó, nghiên cứu tổng hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên và môi trường; triển khai, ứng dụng và chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ; đề xuất và chủ trì thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia theo phân công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có nhiệm vụ đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao; tổ chức đào tạo đại học và sau đại học về khoa học tự nhiên và công nghệ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật. Tư vấn các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình và dự án phát triển khoa học và công nghệ quan trọng trong phạm vi chức năng được giao theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có 42 đơn vị gồm:  1- Ban Tổ chức - Cán bộ; 2- Ban Kế hoạch - Tài chính; 3- Ban Hợp tác quốc tế; 4- Ban Ứng dụng và Triển khai công nghệ; 5- Ban Kiểm tra;  6- Văn phòng; 7- Viện Toán học; 8- Viện Vật lý; 9- Viện Hoá học; 10- Viện Hoá học các hợp chất thiên nhiên; 11- Viện Cơ học; 12- Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật; 13- Viện Địa lý; 14- Viện Địa chất; 15- Viện Vật lý địa cầu; 16- Viện Hải dương học; 17- Viện Tài nguyên và Môi trường biển; 18- Viện Địa chất và Địa vật lý biển; 19- Viện Khoa học năng lượng; 20- Viện Khoa học vật liệu; 21- Viện Công nghệ thông tin; 22- Viện Công nghệ sinh học; 23- Viện Công nghệ môi trường; 24- Viện Công nghệ hoá học; 25- Viện Công nghệ vũ trụ; 26- Viện Cơ học và Tin học ứng dụng; 27- Viện Sinh học nhiệt đới; 28- Viện Kỹ thuật nhiệt đới; 29- Viện Khoa học vật liệu ứng dụng; 30- Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang; 31- Viện Hoá sinh biển; 32- Trung tâm Vũ trụ Việt Nam; 33- Viện Nghiên cứu khoa học Tây Nguyên; 34- Viện Nghiên cứu hệ Gen; 35- Trung tâm Thông tin - Tư liệu; 36- Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam; 37- Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ; 38- Trung tâm Phát triển công nghệ cao; 39- Trung tâm Tin học và Tính toán; 40- Học viện Khoa học và Công nghệ; 41- Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội; 42- Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ.
Các đơn vị quy định từ 1 đến  6 nêu trên là các đơn vị chuyên môn giúp việc cho Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Văn phòng được tổ chức 10 phòng. Các đơn vị quy định từ 7 đến 34 nêu trên là các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Các đơn vị quy định từ 35 đến 42 nêu trên là các đơn vị sự nghiệp công lập khác. Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc.
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có Chủ tịch và không quá 04 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm; chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật. Các Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công.
Thủ tướng chỉ thị chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Chỉ thị số 20/CT-TTg yêu cầu chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Chỉ thị nêu rõ, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII và các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình hành động của Chính phủ.
Theo tinh thần đó, các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực thực hiện với nhiều biện pháp cụ thể, đặc biệt là đổi mới công tác xây dựng, phê duyệt và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra; khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giảm thiểu phiền hà cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, qua theo dõi  tình hình và phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp thấy rằng, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành nói riêng vẫn tồn tại những hạn chế, còn những vụ việc gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra chưa chặt chẽ; thời gian thanh tra kéo dài; nội dung tranh tra chưa rõ ràng, có khi vượt ra ngoài thẩm quyền quản lý; chậm ban hành kết luận thanh tra, chưa làm rõ được dấu hiệu vi phạm, kiến nghị xử lý chưa cụ thể…
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung chỉ đạo khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp; trường hợp kế hoạch thanh tra trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm toán nhà nước thì chủ động phối hợp, trao đổi với Kiểm toán nhà nước, Thanh tra Chính phủ để thống nhất phương án xử lý theo quy định hiện hành, đảm bảo sự kế thừa kết quả thanh tra, kiểm toán, không làm cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Cần tiến hành rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt theo tinh thần trên.
Đồng thời chỉ đạo tiến hành các cuộc thanh tra theo đúng định hướng, kế hoạch thanh tra đã phê duyệt; nội dung thanh tra phải giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước được giao; chủ động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch thanh tra khi cần thiết theo hướng không làm tăng số cuộc thanh tra; ban hành kết luận thanh tra phải đúng thời hạn theo quy định.
Trường hợp thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, chỉ ban hành quyết định thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng; kết luận thanh tra, kiểm tra phải xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm.
Người ra quyết định thanh tra, kiểm tra; trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra; công chức thanh tra chuyên ngành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kết luận, làm rõ nguyên nhân, mức độ vi phạm và việc xử lý đối với cá nhân, tổ chức có liên quan theo các dấu hiệu đã được xác định là căn cứ để ra quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất. Không mở rộng phạm vi thanh tra, kiểm tra vượt quá nội dung của quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất.
Trường hợp phát hiện thấy nội dung, phạm vi thanh tra có chồng chéo, trùng lặp với cơ quan thực hiện chức năng thanh tra khác hoặc Kiểm toán nhà nước, Thủ trưởng cơ quan tiến hành thanh tra phải báo cáo ngay với Thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan, đơn vị có liên quan để có giải pháp phù hợp tránh chồng chéo, trùng lặp và đảm bảo tính kế thừa trong hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tăng cường kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của mình; kịp thời phát hiện, xử lý chồng chéo, trùng lặp theo thẩm quyền về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra, kiểm tra; xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân để xảy ra tình trạng trùng lặp, chồng chéo.
Tổng Thanh tra Chính phủ phải tăng cường kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm kịp thời phát hiện, xử lý chồng chéo, trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra theo thẩm quyền;  kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân để xảy ra tình trạng trùng lặp, chồng chéo.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra và các cá nhân có liên quan để xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp; quyết định thanh tra, kiểm tra thiếu căn cứ, không ban hành được kết luận thanh tra, kiểm tra theo các dấu hiệu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hiện hành.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này, thường xuyên thông báo và định kỳ hàng quý báo cáo kết quả về Thanh tra Chính phủ.
Thủ tướng chỉ thị chấn chỉnh hoạt động thanh tra doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Chỉ thị 20/CT-TTg yêu cầu chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Ngay sau Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2017 diễn ra sáng nay (17/5), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã vừa ký Chỉ thị 20/CT-TTg yêu cầu chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Chỉ thị nêu rõ, qua theo dõi tình hình và phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp thấy rằng, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành nói riêng vẫn tồn tại những hạn chế, còn những vụ việc gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra chưa chặt chẽ; thời gian thanh tra kéo dài; nội dung tranh tra chưa rõ ràng, có khi vượt ra ngoài thẩm quyền quản lý; chậm ban hành kết luận thanh tra, chưa làm rõ được dấu hiệu vi phạm, kiến nghị xử lý chưa cụ thể…
Chỉ thị 20 cũng chỉ ra rằng, thực trạng nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là sự phân công giữa các bộ, ngành ở Trung ương và sự phân cấp, ủy quyền giữa các Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương chưa rõ ràng.
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nói trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiêm túc quán triệt và chỉ đạo chặt chẽ công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành...; tập trung chỉ đạo khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp;
Trường hợp kế hoạch thanh tra trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm toán nhà nước thì chủ động phối hợp, trao đổi với Kiểm toán nhà nước, Thanh tra Chính phủ để thống nhất phương án xử lý theo quy định hiện hành, đảm bảo sự kế thừa kết quả thanh tra, kiểm toán, không làm cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Cần tiến hành rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt theo tinh thần trên.
Đồng thời chỉ đạo tiến hành các cuộc thanh tra theo đúng định hướng, kế hoạch thanh tra đã phê duyệt; nội dung thanh tra phải giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước được giao; chủ động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch thanh tra khi cần thiết theo hướng không làm tăng số cuộc thanh tra; ban hành kết luận thanh tra phải đúng thời hạn theo quy định.
Trường hợp thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, chỉ ban hành quyết định thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng; kết luận thanh tra, kiểm tra phải xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm. Người ra quyết định thanh tra, kiểm tra; trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra; công chức thanh tra chuyên ngành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kết luận, làm rõ nguyên nhân, mức độ vi phạm và việc xử lý đối với cá nhân, tổ chức có liên quan theo các dấu hiệu đã được xác định là căn cứ để ra quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất. Không mở rộng phạm vi thanh tra, kiểm tra vượt quá nội dung của quyết định thanh tra, kiểm tra đột xuất.
Trường hợp phát hiện thấy nội dung, phạm vi thanh tra có chồng chéo, trùng lặp với cơ quan thực hiện chức năng thanh tra khác hoặc Kiểm toán nhà nước, Thủ trưởng cơ quan tiến hành thanh tra phải báo cáo ngay với Thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan, đơn vị có liên quan để có giải pháp phù hợp tránh chồng chéo, trùng lặp và đảm bảo tính kế thừa trong hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tăng cường kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của mình; kịp thời phát hiện, xử lý chồng chéo, trùng lặp theo thẩm quyền về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra, kiểm tra; xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân để xảy ra tình trạng trùng lặp, chồng chéo.
Tổng Thanh tra Chính phủ phải tăng cường kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm kịp thời phát hiện, xử lý chồng chéo, trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra theo thẩm quyền; kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân để xảy ra tình trạng trùng lặp, chồng chéo.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra và các cá nhân có liên quan để xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp; quyết định thanh tra, kiểm tra thiếu căn cứ, không ban hành được kết luận thanh tra, kiểm tra theo các dấu hiệu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hiện hành.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này, thường xuyên thông báo và định kỳ hàng quý báo cáo kết quả về Thanh tra Chính phủ.
3 đối tượng phải đăng ký cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen. Nghị định số 59/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định 3 đối tượng phải đăng ký và đề nghị cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen.
3 đối tượng phải đăng ký và đề nghị cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen gồm: 1- Tổ chức, cá nhân Việt Nam có nhu cầu tiếp cận nguồn gen để nghiên cứu vì mục đích thương mại, phát triển sản phẩm thương mại; 2- Tổ chức, cá nhân nước ngoài có nhu cầu tiếp cận nguồn gen trên lãnh thổ Việt Nam vì bất cứ mục đích nào; 3- Tổ chức, cá nhân Việt Nam có nhu cầu đưa nguồn gen được tiếp cận ra nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại Điều 20 Nghị định này.
Đối tượng là cá nhân đăng ký và đề nghị cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen quy định ở trên phải đáp ứng các yêu cầu sau:
1- Có bằng cấp chuyên môn (từ đại học trở lên) về một trong các lĩnh vực: sinh học, công nghệ sinh học, dược học và khoa học nông nghiệp;
2- Là thành viên của tổ chức khoa học và công nghệ đang hoạt động theo quy định pháp luật của quốc gia nơi tổ chức được thành lập trong các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, dược học, khoa học nông nghiệp và được tổ chức này bảo lãnh bằng văn bản.
Khi có nhu cầu tiếp cận nguồn gen, các đối tượng trên phải thực hiện các bước sau:
1- Đăng ký tiếp cận nguồn gen với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
2- Thỏa thuận và ký Hợp đồng với Bên cung cấp;
3- Đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận Hợp đồng;
4- Nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
5- Cung cấp thông tin, tài liệu bổ sung; hoàn thiện hồ sơ khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thẩm định hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen.
Bị thu giấy phép nếu sử dụng nguồn gen gây hại
Nghị định quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp, gia hạn và thu hồi Giấy phép tiếp cận nguồn gen đối với nguồn gen của giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản và giống cây lâm nghiệp. Các trường hợp khác do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp, gia hạn và thu hồi Giấy phép tiếp cận nguồn gen.
Nghị định quy định rõ Giấy phép tiếp cận nguồn gen bị thu hồi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện một trong các trường hợp sau:
1- Tổ chức, cá nhân đã cung cấp thông tin giả mạo để được cấp Giấy phép tiếp cận nguồn gen;
2- Hoạt động tiếp cận và sử dụng nguồn gen gây hại con người, môi trường, an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia của Việt Nam;
3- Tiến hành hoạt động tiếp cận và sử dụng nguồn gen ngoài phạm vi được cấp phép;
4- Các trường hợp vi phạm khác theo quy định của pháp luật.
Từ 1/7: Tăng hàng loạt công tác phí cho cán bộ, công chức. Thông tư 40/2017/TT-BTC do Bộ Tài Chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị có hiệu lực từ ngày 1/7/2017. Hàng loạt các mức công tác phí, phụ cấp lưu trú, thanh toán theo thực tế, thanh toán công tác phí theo tháng...mới được ban hành theo hướng tăng thêm.
Thông tư 40/2017/TT-BTC quy định đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo quy định của pháp luật làm việc tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước hỗ trợ.
Ngoài ra, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khi tham gia hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng là đối tượng được áp dụng quy định của Thông tư này.
Thông tư 40/2017/TT-BTC quy định, phụ cấp lưu trú là khoản tiền hỗ trợ thêm cho người đi công tác ngoài tiền lương do cơ quan, đơn vị cử người đi công tác chi trả, được tính từ ngày bắt đầu đi công tác đến khi kết thúc đợt công tác trở về cơ quan, đơn vị (bao gồm thời gian đi trên đường, thời gian lưu trú tại nơi đến công tác).
Mức phụ cấp lưu trú để trả cho người đi công tác: 200.000 đồng/ngày.
Trường hợp đi công tác trong ngày (đi và về trong ngày) thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định mức phụ cấp lưu trú theo các tiêu chí: Căn cứ theo số giờ thực tế đi công tác trong ngày, theo thời gian phải làm ngoài giờ hành chính (bao gồm cả thời gian đi trên đường), quãng đường đi công tác và được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan, đơn vị.
Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ở đất liền được cử đi công tác làm nhiệm vụ trên biển, đảo thì được hưởng mức phụ cấp lưu trú: 250.000 đồng/người/ngày thực tế đi biển, đảo (áp dụng cho cả những ngày làm việc trên biển, đảo, những ngày đi, về trên biển, đảo).
Trường hợp một số ngành đặc thù đã được cấp có thẩm quyền quy định về chế độ chi bồi dưỡng khi đi công tác trên biển, đảo thì được chọn chế độ quy định cao nhất (phụ cấp lưu trú hoặc chi bồi dưỡng) để chi trả cho người đi công tác.
Trong đó, thanh toán theo hình thức khoán:
Cấp lãnh đạo cấp Bộ trưởng, Thứ trưởng và các chức danh lãnh đạo có hệ số phụ cấp chức vụ từ 1,25 trở lên, mức khoán: 1.000.000 đồng/ngày/người, không phân biệt nơi đến công tác;
Đối với các đối tượng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động còn lại: Đi công tác ở quận, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương và thành phố là đô thị loại I thuộc tỉnh, mức khoán: 450.000 đồng/ngày/người. Đi công tác tại huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương, tại thị xã, thành phố còn lại thuộc tỉnh, mức khoán: 350.000 đồng/ngày/người. Đi công tác tại các vùng còn lại, mức khoán: 300.000 đồng/ngày/người…
Phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa. Ngày 18/5/2017, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã ký ban hành Quyết định số 676/QĐ-TTg phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn cấp huyện giai đoạn 2017 - 2020.
Đề án nhằm cụ thể hóa Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí huyện nông thôn mới và quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2020, có 30% số huyện được lập quy hoạch xây dựng vùng huyện.
Một trong những điểm đáng chú ý là Đề án định hướng xây dựng các trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất trên địa bàn huyện. Cụ thể, hình thành các trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất cấp huyện gắn với các thị trấn, trung tâm cụm xã, các cụm công nghiệp... đảm bảo phục vụ cho tiểu vùng trong huyện nhằm phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ, gắn với vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn trong tiểu vùng. đầu trang(

TIÊU ĐIỂM
Hội nghị Quan chức cấp cao APEC lần thứ hai (SOM 2) khai mạc sáng 17/5 tại Hà Nội với sự chủ trì của Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn.
Hội nghị Quan chức cao cấp APEC lần thứ hai (SOM 2) có sự tham gia của các đại biểu đến từ 21 nền kinh tế thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), diễn ra trong hai ngày 17-18/5 tại Hà Nội.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ tịch SOM, ông Bùi Thanh Sơn, khẳng định: "Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển mạnh mẽ nhất trên thế giới, với động lực tăng lên".
Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng tương lai ngắn hạn của khu vực sẽ bị bao phủ bởi những bất ổn và thách thức lớn. "Điều này đòi hỏi các hoạt động kinh tế riêng lẻ phải được hỗ trợ bởi hợp tác đa phương, cũng như các chính sách hỗ trợ phát triển trong khi thúc đẩy cải cách cơ cấu, sự bền vững và bao trùm".
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn đánh giá Hội nghị SOM 2 và các cuộc họp liên quan có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các ưu tiên đã thông qua của APEC, thúc đẩy các sáng kiến mới và chuẩn bị cho Hội nghị các Bộ trưởng phụ trách Thương mại (MRT) sắp diễn ra.
SOM 2 cũng đánh dấu nửa chặng đường của Năm APEC Việt Nam 2017, có vai trò then chốt trong việc triển khai các sáng kiến cụ thể hóa các ưu tiên của Năm APEC 2017.
Bộ Ngoại giao cho biết khoảng 2.000 đại biểu trong nước và quốc tế, trong đó có các bộ trưởng phụ trách về vấn đề thương mại và phát triển nguồn nhân lực của các thành viên APEC, tham gia hội nghị lần này.
Qua 27 năm hình thành và phát triển kể từ 1989, APEC tiếp tục khẳng định vai trò là cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tập trung vào 3 trụ cột hợp tác chính: Tự do hóa thương mại và đầu tư; Thuận lợi hóa kinh doanh; và Hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
APEC là diễn đàn mở, hoạt động theo nguyên tắc cùng lợi, đồng thuận, tự nguyện và không ràng buộc. Kể từ khi thành lập, APEC đã trải qua 4 đợt mở rộng và hiện có 21 nền kinh tế thành viên, hội tụ các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Tính đến tháng 11/2016, APEC đại diện khoảng 39% dân số thế giới, đóng góp 59% GDP và 48% thương mại toàn cầu. (Zing News 17/85) đầu trang(

PHÁT NGÔN NÓNG
Sẽ phải trả giá đắt nếu tặc lưỡi cho qua vướng mắc khó của người dân
“Những việc nhỏ của dân phải giải quyết ngay, không phải thấy nó còn nhỏ mà tặc lưỡi cho qua, sẽ tiềm ẩn nguy cơ bùng phát thành điểm nóng, rồi có khi sẽ lại phải trả giá đắt” (Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải phát biểu tại buổi làm việc với Huyện ủy Mê Lịnh ngày 12-5)
Phải biết sợ khi nhân dân không hài lòng
“Công chức, cán bộ phải biết nghe dân, biết sợ khi nhân dân không hài lòng, lấy sự hài lòng của người dân để đánh giá công việc của mình” (Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân phát biểu sau khi nhận quyết định phân công nhiệm vụ mới ngày 10-5) đầu trang(

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Bộ Tài chính xếp hạng đầu về cung cấp dịch vụ công trực tuyến năm 2016. Bộ Tài chính có tổng cộng 214 dịch vụ công mức độ 3, 4 được cung cấp năm 2016, đứng đầu bảng xếp hạng theo số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ, 3, 4 được cung cấp tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ năm 2016.
Với quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy chính phủ điện tử (CPĐT) qua việc phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước (CQNN) giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ) và Nghị quyết về CPĐT (Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ), trong năm 2016, số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 được các cơ quan cung cấp ngày càng tăng.
Theo báo cáo đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2016 của Cục Tin học hóa Bộ TT&TT chủ trì, các Bộ triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 hiệu quả cao (có hàng trăm nghìn đến hàng triệu hồ sơ được giải quyết trực tuyến) là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ TT&TT, Bộ Tư pháp và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Các tỉnh, thành phố có nhiều hồ sơ được giải quyết trực tuyến là TP. Hà Nội, An Giang, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tiền Giang.  Thông qua dịch vụ công trực tuyến, người dân và DN đã giảm được nhiều thời gian, thuận lợi hơn khi thực hiện các thủ tục hành chính với các cơ quan nhà nước.
Đặc biệt, Bộ Tài chính đứng đầu danh sách cung cấp dịch vụ công trực tuyến với 56 dịch vụ công mức độ 3, 158 dịch vụ công mức độ 4. Bộ Tài chính còn đạt 28 triệu hồ sơ trực tuyến.
Tuy nhiên, theo kết quả đánh giá ứng dụng CNTT năm 2016 được Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT thực hiện, hiện nay còn có dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tại nhiều địa phương có hiệu quả chưa cao, chưa có hồ sơ trực tuyến hoặc số lượng hồ sơ trực tuyến còn thấp. Nhiều dịch vụ còn triển khai riêng lẻ, chưa đồng bộ dẫn đến trùng lặp, khó có khả năng kết nối, chia sẻ, sử dụng lại thông tin. Điều này làm cho việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân chưa thật sự thuận tiện và là một trong những nguyên nhân làm giảm sự hiệu quả của dịch vụ.
Ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Tin học hóa, Phó trưởng Ban điều hành triển khai công tác ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN tại cuộc họp của Ban mới đây cho biết năm nay, Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về CPĐT đã làm tăng dịch vụ công trực tuyến. Đã có một số cơ quan điển hình cung cấp hiệu quả dịch vụ công trực tuyến là Bộ Tài chính có 21 triệu hồ sơ trực tuyến, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam 28 triệu hồ sơ. Các tỉnh thì thấp hơn nhưng cũng rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, ông Phúc cũng cho biết có một số địa phương có số lượng dịch vụ công trực tuyến cao nhưng không có nhiều hồ sơ trực tuyến, thậm chí là không có. Có khoảng 12 tỉnh có được hơn 1000 hồ sơ hơn 1 năm.
Theo đó, ông Phú nhấn mạnh cần “quan tâm đến hiệu quả chứ không phải số lượng dịch vụ”. Trong chỉ tiêu chấm điểm cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Nội vụ chủ trì, Cục Tin học hóa sẽ đề nghị Bộ Nội vụ tính hồ sơ  trực tuyến, chứ không tính số lượng dịch vụ để quan tâm chất lượng.
Một vấn đề nữa được ông Phúc nêu là kết nối chia sẻ dữ liệu cần được quan tâm trong các năm tới và phải rất quyết tâm thì mới có kết quả. Bộ TT&TT đã có chủ trương tăng cường quản lý nhà nước về CSDL quốc gia ưu tiên triển khai trong đó có nhiều biện pháp hành chính, pháp lý, thúc ép kiểm tra để đẩy mạnh và khai thác cơ sở dữ liệu. Một thông tư kết nối các hệ thống thông tin của các Bộ ngành và các CSDL quốc gia cũng đang được dự thảo để trong quá trình triển khai xây dựng các đơn vị phải lưu tâm về tiêu chuẩn kỹ thuật, để đảm bảo sau này có thể kết nối CSDL.
Được biết năm 2016, công tác khảo sát, đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của CQNN được thực hiện đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Mức độ triển khai ứng dụng CNTT của các CQNN được đánh giá trên 6 nhóm tiêu chí là: (1) Hạ tầng kỹ thuật CNTT; (2) Triển khai Ứng dụng CNTT; (3) Trang/Cổng thông tin điện tử (Cung cấp, cập nhật thông tin; Các chức năng hỗ trợ trên trang/cổng thông tin điện tử); (4) Cung cấp dịch vụ công trực tuyến; (5) Cơ chế chính sách và quy định thúc đẩy ứng dụng CNTT và (6) Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT.
Người dân Đồng Nai có thể ngồi nhà làm thủ tục hành chính. Người dân, doanh nghiệp không có thời gian đến Trung tâm hành chính công làm thủ tục hành chính vẫn có thể ngồi tại nhà làm thủ tục, nhận kết quả trực tuyến hoặc thông qua dịch vụ giao nhận.
Sáng 15.5, Đồng Nai đã đưa Trung tâm hành chính công vào hoạt động, tại tầng 6, cao ốc Sonadezi (khu vực Ngã ba Vũng Tàu, P.An Bình, TP.Biên Hòa, Đồng Nai). Trung tâm hành chính công tỉnh Đồng Nai trực thuộc Văn phòng UBND tỉnh, có con dấu riêng, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND tỉnh, Chánh văn phòng UBND tỉnh
Mọi thủ tục hành chính liên quan tới Công an tỉnh, Cục thuế, Cảnh sát PCCC tỉnh và các sở, ban, ngành sẽ được tiếp nhận, giải quyết tại đây.
Ông Tạ Quan Trường, Phó giám đốc Sở Nội vụ Đồng Nai kiêm Phó ban cải cách hành chính tư pháp tỉnh, cho biết nhằm đơn giản thủ tục hành chính, Trung tâm hành chính công của tỉnh đã sử dụng phần mềm với 3 hình thức tiếp nhận và trả hồ sơ. Nếu người dân và doanh nghiệp không có thời gian đến Trung tâm hành chính công vẫn có thể ngồi tại nhà làm thủ tục và nhận kết quả trực tuyến hoặc thông qua dịch vụ giao nhận tại nhà.
Ông Tạ Quan Trường, Phó giám đốc Sở Nội vụ Đồng Nai kiêm Phó ban cải cách hành chính tư pháp tỉnh, cho biết nhằm đơn giản thủ tục hành chính, Trung tâm hành chính công của tỉnh đã sử dụng phần mềm với 3 hình thức tiếp nhận và trả hồ sơ. Nếu người dân và doanh nghiệp không có thời gian đến Trung tâm hành chính công vẫn có thể ngồi tại nhà làm thủ tục và nhận kết quả trực tuyến hoặc thông qua dịch vụ giao nhận tại nhà.
Cũng theo ông Trường, thông qua phần mềm này, Văn phòng UBND tỉnh Đồng Nai có thể dễ dàng theo dõi, giám sát việc thực hiện tiếp nhận và xử lý hồ sơ thủ tục hành chính.
Hà Nội: Đẩy mạnh cải cách hành chính thuế hiệu quả. Với việc triển khai có hiệu quả các chương trình cải cách, Cục Thuế TP Hà Nội đã góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nhằm thực hiện tốt mục tiêu cải cách hành chính thuế, Cục Thuế TP Hà Nội  đã đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, đảm bảo công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế (NNT), người dân dựa trên 3 nền tảng cơ bản:
Thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính (TTHC) thuế đơn giản, khoa học và phù hợp với thông lệ quốc tế;
Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, Cục Thuế TP Hà Nội lấy sự hài lòng của NNT và Nhân dân làm mục tiêu chính để cải cách.
Chính vì vậy đã có 97% doanh nghiệp kê khai qua mạng và trên 95% số tiền thuế  nộp theo phương thức điện tử đã vượt chỉ tiêu Nghị quyết 19/NQ-CP đề ra, đã giảm thời gian, chi phí cho NNT và cho cả cơ quan thuế trong kê khai, nộp thuế.
Đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp (cấp độ 4) cấp mã số thuế tự động trong thời gian không quá 30 phút giảm 87,5% thời gian thực hiện so với quy định là 4 tiếng đồng hồ;
Đã rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ từ 5 ngày xuống 3 ngày trong việc giải quyết TTHC liên quan đến đất đai…
Bênh cạnh đó, với tư cách là thành viên tích cực trong Ban chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động SXKD cho doanh nghiệp,
Cục Thuế luôn chủ động nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các kênh thông tin để nắm bắt các khó khăn, vướng mắc của NNT,
Từ đó tham mưu, kiến nghị cơ chế chính sách thuế phù hợp thực tiễn giúp cộng đồng doanh nghiệp, NNT tiếp tục duy trì, ổn định, phát triển SXKD, thu hút đầu tư, tạo nguồn thu bền vững cho Ngân sách Nhà nước.
Riêng năm 2016 Cục thuế TP Hà Nội đã tổ chức 108 lớp tập huấn miễn phí cho 17.961 NNT trên địa bàn và 03 lớp tập huấn cho 990 CBCC...
Song song với việc tuyên truyền chính sách, pháp luật về thuế, Cục Thuế đã tập trung nhân lực, tài lực để hỗ trợ tối đa cho NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, nhất là tại bộ phận “Một cửa” của cơ quan Thuế.
Đã tổ chức 46 buổi đối thoại cho 7.504 người nộp thuế trên địa bàn.
Với việc triển khai chỉ đạo có hiệu quả, kịp thời các chương trình cải cách, Cục Thuế TP Hà Nội đã góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đặc biệt, rõ nét nhất là năm 2016 chỉ số CPI của Hà Nội tăng 10 bậc (theo công bố của VCCI).
TP.HCM: Tìm ra giải pháp giải quyết khó khăn trong xây dựng chính quyền điện tử. Việc áp dụng công nghệ thông tin bằng giải pháp số hóa tài liệu chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế đang được TPHCM áp dụng nhằm góp phần giảm thiểu các khó khăn trong xây dựng chính quyền điện tử.
Ông Trần Vĩnh Tuyến - Phó Chủ tịch UBND TPHCM cho biết: “TPHCM là trung tâm khoa học công nghệ của cả nước, với hơn 1.400 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. TPHCM đã triển khai và tiếp tục nỗ lực xây dựng chính quyền điện tử, rất mong muốn các doanh nghiệp công nghệ Việt giới thiệu các sản phẩm, giải pháp, ứng dụng thiết thực trong lĩnh vực này đến các cấp chính quyền phường, xã, quận, huyện và các sở ngành để đẩy mạnh cải cách hành chính”.
Ông Tuyến cho biết thêm, mong muốn có sự kết nối giữa các doanh nghiệp công nghệ thông tin và các doanh nghiệp ứng dụng đang hoạt động trên địa bàn thành phố. Đồng thời giới thiệu các sản phẩm công nghệ Việt Nam để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân thành phố, với các tiện ích cho vấn đề giao thông, bảo vệ sức khỏe, môi trường,… nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng sống.
Ông Lê Quốc Cường-Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông TPHCM, cho biết: “Ngay trong lần tổ chức đầu tiên này, Hội chợ, Triển lãm Công nghệ thông tin - Điện tử - Viễn thông TP.HCM đã thu hút 38 doanh nghiệp là các doanh nghiệp CNTT; Doanh nghiệp điện tử; và Doanh nghiệp viễn thông. Tại triển lãm, nhiều công ty sẽ giới thiệu những phần mềm có chất lượng cao, triển khai trên diện rộng phục vụ cho xây dựng chính quyền điện tử thành phố, đơn cử như: Hệ thống quản lý khách hàng của Tổng công ty Điện lực Thành phố, các giải pháp xây dựng chính quyền điện tử của công ty FPT, tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), …
Đáng chú ý, hội thảo với chủ đề “Giải pháp số hóa phục vụ cải cách hành chính và chính quyền điện tử” của Công ty FSI đã thu hút sự chú ý của khách tham dự. Ông Nhữ Mạnh Hùng - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại và Phát triển Công nghệ FSI, cho biết: “FSI mong muốn cùng các doanh nghiệp, tổ chức, hiệp hội uy tín tại thành phố và các tỉnh chung tay phối hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước tại Tp.HCM trong quá trình ứng dụng công nghệ vào cải cách hành chính, giúp nâng cao hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp. Công ty đã xây dựng nên giải pháp số hóa tài liệu chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 27001:2013, và ISO 9001:2015 góp phần giảm thiểu các khó khăn trong xây dựng chính quyền điện tử và giải quyết các vấn đề lưu trữ, khai thác dữ liệu tại doanh nghiệp".
Hà Nội: Giải quyết thủ tục hành chính lưu động. Việc triển khai giải quyết thủ tục hành chính lưu động của Công an quận Đống Đa không chỉ tháo gỡ khó khăn cho người dân, tăng cường công tác quản lý nhà nước, mà còn tạo sự gần gũi, tin cậy, quý mến của người dân đối với lực lượng công an nhân dân.
Trong tháng 4, cán bộ, chiến sĩ Đội Cảnh sát Quản lý hành chính, Công an quận Đống Đa đã phối hợp lực lượng công an các phường trên địa bàn thực hiện cấp thẻ Căn cước công dân tại nhà cho các thương, bệnh binh, người già yếu, người tàn tật không có khả năng đi lại. Trung tá Vũ Hồng Thanh, Đội trưởng Cảnh sát Quản lý hành chính quận cho biết: Hiện tại, công an quận thực hiện cấp thẻ Căn cước công dân lưu động tại trụ sở công an các phường vào ngày thứ ba, thứ tư hằng tuần; cấp tại trụ sở 119B phố Thái Hà vào các ngày thứ hai, thứ năm, thứ sáu và sáng thứ bảy cho người dân có hộ khẩu thường trú tại quận Đống Đa.
Nhờ hệ thống máy móc hiện đại, gọn nhẹ, chỉ mất khoảng 15 đến 20 phút để giải quyết thủ tục cho một trường hợp. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho những người không có khả năng đi lại, chúng tôi tổ chức hoạt động cấp thẻ Căn cước công dân cho những đối tượng này tại nhà. Đây là nội dung mới, đồng thời là nét đẹp trong phong trào thi đua cải cách hành chính mà Công an quận Đống Đa đã phát động nhằm thực hiện “Năm Kỷ cương hành chính 2017”.
Cùng cán bộ, chiến sĩ Đội Cảnh sát Quản lý hành chính và Công an phường Nam Đồng xuống địa bàn, chúng tôi ghi nhận niềm vui, tình cảm của người dân khi được cơ quan chức năng đến tận nhà giúp làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân. Anh Lê Văn Sơn, sinh năm 1961, trú tại nhà số 10, ngõ 135 phố Nam Đồng, bị bại liệt từ nhỏ. Năm nay đã ngoài 50 tuổi nhưng mọi sinh hoạt cá nhân anh vẫn phải nhờ sự hỗ trợ của người thân, cho nên anh không dám nghĩ tới việc đi làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân. Nay các cán bộ, chiến sĩ đến tận nhà chụp ảnh, lấy dấu vân tay, ghi khai thủ tục…, anh không giấu được niềm vui lần đầu tiên có giấy tờ tùy thân.
Tại phòng 2, nhà G1, khu tập thể Nam Đồng, tổ công tác triển khai làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân rất nhanh chóng cho cụ ông Nguyễn Kế Vân, sinh năm 1923 và cụ bà Trần Thị Phượng, sinh năm 1932. Hai cụ tuổi cao sức yếu, cụ bà phải nằm bất động trên giường, nếu Công an quận không làm thủ tục lưu động các cụ sẽ không có thẻ Căn cước công dân, bởi việc đưa các cụ ra trụ sở công an phường là vô cùng khó khăn.
Hơn nữa, đối với các cụ cao tuổi, để được cấp thẻ Căn cước công dân còn vướng thủ tục khác. Theo quy định của Luật Căn cước, công dân đi làm thủ tục cấp thẻ, phải mang theo hộ khẩu có ghi đủ thông tin về ngày, tháng, năm sinh. Trường hợp sổ hộ khẩu không có thông tin này, công dân cần đến Công an quận để làm thủ tục đính chính bằng Giấy khai sinh, thẻ đảng viên hoặc các giấy tờ khác có liên quan.
Đối với các cụ cao tuổi, hộ khẩu cấp từ nhiều năm trước thường không có thông tin ngày, tháng sinh (chỉ có năm sinh). Để tháo gỡ khó khăn này, nhằm giảm số lần đi lại cho công dân, trong tổ công tác làm thủ tục lưu động, Công an quận bố trí cán bộ hộ khẩu đi theo để xác nhận, giải quyết đồng thời luôn thủ tục bổ sung thông tin vào hộ khẩu. Hạn xử lý hồ sơ và kết quả được trả sớm theo đề nghị của công dân, tùy từng trường hợp mà có thời hạn từ một đến ba ngày.
Tổ công tác của Công an phường Nam Đồng phần lớn là nữ và đều có con nhỏ nhưng không ngại làm thêm giờ buổi tối, các ngày cuối tuần, với tác phong tận tình, chu đáo, góp phần xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa công an và nhân dân trên địa bàn. Đại diện Công an quận Đống Đa cho biết, việc cán bộ, chiến sĩ làm thêm giờ và đến tận nhà để giải quyết thủ tục lưu động sẽ được duy trì thường xuyên tại các phường, để người dân, nhất là thân nhân các gia đình thương, bệnh binh, cán bộ lão thành cách mạng, người cao tuổi, người tàn tật thuận lợi trong việc đăng ký các thủ tục hành chính.
Thông qua đó, lực lượng cảnh sát quản lý hành chính quyết tâm thực hiện tốt việc cải cách thủ tục, phấn đấu đạt tiêu chí ba giảm: Giảm hồ sơ, giấy tờ; giảm việc đi lại của nhân dân và giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính. Kế hoạch hành động này thúc đẩy nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ đối với công việc, đồng thời thiết thực thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa đối với cán bộ lão thành cách mạng, các gia đình chính sách trên địa bàn quận.
Công an quận Đống Đa đã bước đầu thực hiện có hiệu quả việc kết hợp cải cách hành chính với xây dựng điển hình cảnh sát khu vực; làm sao mỗi cán bộ, chiến sĩ cảnh sát là một cán bộ giỏi về công tác dân vận với phương châm “Dân cần phải có, dân gặp khó phải đến". đầu trang(

MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
Công an Thanh Hóa là mô hình điểm về xây dựng hình ảnh cán bộ chiến sĩ vì dân. Sau một năm thực hiện mô hình “Xây dựng hình ảnh người cán bộ chiến sĩ công an Thanh Hoá vì nhân dân phục vụ”, Công an tỉnh Thanh Hóa đã được Bộ Công an đánh giá cao và trở thành một trong những mô hình điểm hình của cả nước.
Đại tá Đào Đức Minh – Phó giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa cho biết: Sau 1 năm triển khai thực hiện, kế hoạch hành động “Xây dựng hình ảnh người cán bộ chiến sĩ công an Thanh Hoá vì nhân dân phục vụ” trong toàn lực lượng (kể cả công an xã, thị trấn) bước đầu đã có sức lan toả và được sự đồng tình, ủng hộ cao của cấp uỷ - chính quyền, các ban ngành, đoàn thể và nhân dân.
Mục tiêu cốt lõi là xây dựng đội ngũ CBCS Công an Thanh Hoá có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hoá ứng xử, tinh thông về pháp luật nghiệp vụ, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, hết lòng phục vụ nhân dân, tạo được sự thân thiện, gắn bó, tin yêu và giúp đỡ của nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo ANTT trên địa bàn…
Bên cạnh đó, Công an Thanh Hóa cũng thường xuyên tổ chức hội nghị “Công an lắng nghe ý kiến của dân” và lấy ý kiến đánh giá về sự “hài lòng” của dân đối với công an ở tất cả các cấp.
Sau một năm thực hiện kế hoạch hành động, Công an Thanh Hóa có hơn 600 lượt tập thể, hơn 200 lượt cá nhân được Giám đốc Công an tỉnh biểu dương người tốt, việc tốt.
TP.HCM: Xây dựng thành phố thông minh, hiện đại. Việc thực thi đề án xây dựng thành phố thông minh giúp người dân tiếp cận thông tin về môi trường hàng ngày, đảm bảo đời sống an sinh xã hội đầy đủ hơn.
Chỉ cần ngồi ở nhà, bạn cũng có thể tiếp cận đến kho dữ liệu khổng lồ trên internet thông qua chiếc máy tính hoặc điện thoại, từ các thông tin y tế, sức khỏe, giao thông, môi trường… Sự bùng nổ của công nghệ thông tin ở thời đại mới đã trở nên gắn bó mật thiết hơn với đời sống con người.
Tại buổi khai mạc Hội chợ Công nghệ thông tin - Điện tử - Viễn thông TP.HCM lần 1 năm 2017 do UBND TP.HCM tổ chức, Sở TT&TT TP.HCM chủ trì vừa diễn ra tuần qua, ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM cho biết thành phố (TP) mong muốn đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá, giới thiệu đề án xây dựng TP.HCM trở thành TP thông minh… Hiện TP đã chỉ đạo đề án này và đang chờ ý kiến của hội đồng tư vấn. Được biết, mục tiêu của đề án là nâng cao chất lượng phục vụ người dân, quản lý đô thị hiệu quả. Các lĩnh vực được tập trung thực hiện là giao thông, an ninh, y tế, du lịch và môi trường. Qua việc thực thi đề án này, người dân được phục vụ tốt, tiếp cận thông tin về môi trường hàng ngày, đảm bảo đời sống an sinh xã hội đầy đủ hơn. Đặc biệt, đề án giúp chính quyền TP vận hành linh hoạt hơn.
Là một trong những đơn vị đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình vận hành, Sở TN&MT TP.HCM đang từng bước nỗ lực nhằm góp phần hoàn chỉnh đề án xây dựng TP thông minh.
Năm 2016, Sở kết hợp với Sở TT&TT TP.HCM thí điểm hệ thống phần mềm Một cửa điện tử quản lý đất đai theo mô hình tập trung trên toàn TP. Hệ thống này hướng tới sự minh bạch, một cửa trong giải quyết hồ sơ nhà đất. Phần mềm nhằm thực hiện tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ đất đai theo quy trình thống nhất, liên thông ba cấp chính quyền (phường – xã, quận – huyện, TP), đảm bảo quản lý, giám sát chặt chẽ thông tin về tình trạng, tiến độ xử lý hồ sơ đất đai. Thông qua website http://motcuadatdai.tphmc.gov.vn, người dân có thể sử dụng mã hồ sơ để tra cứu tiến độ giải quyết hồ sơ, cần bổ sung giấy tờ gì.
Cùng nằm trong chương trình xây dựng TP.HCM trở thành TP thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý vận hành, mới đây, Sở TN&MT TP.HCM phối hợp với Trung tâm Quản lý đường hầm sông Sài Gòn trực thuộc Sở GT&VT TP.HCM đã ký kết Quy chế phối hợp về cung cấp thông tin kết quả quan trắc môi trường lên bảng thông tin giao thông điện tử. Chương trình nhằm cung cấp thông tin về chất lượng môi trường (không khí, nước sông, kênh rạch) đến cộng đồng một cách nhanh chóng, góp phần đẩy mạnh hiệu quả bảo vệ môi trường.
Ông Nguyễn Toàn Thắng, Giám đốc Sở TN&MT TP.HCM cho biết đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu cột mốc trong công tác bảo vệ môi trường, giúp người dân có thể dễ dàng tiếp cận, nắm rõ hiện trạng môi trường TP. Việc cung cấp thông tin về kết quả quan trắc chất lượng môi trường đến cộng đồng dân cư nhanh chóng, kịp thời là việc làm hết sức cần thiết.
Được biết, trên các bảng thông tin điện tử, bạn có thể thấy năm thông số đối với chất lượng môi trường không khí của khu vực cụ thể, bao gồm NO2, CO, bụi tổng, bụi PM10 và tiếng ồn; bốn thông số đối với chất lượng môi trường nước gồm pH, DO, BOD5, COD. Hàng tháng, hàng năm, Sở TN&MT TP đều công bố kết quả quan trắc chất lượng môi trường. Vì vậy, khi các chỉ số này được đăng tải rộng rãi thì nhận thức của người dân trong việc xây dựng TP hiện đại, thông minh, sạch đẹp trở nên rõ ràng hơn.
Kết quả bước đầu sau một năm thực hiện Chỉ thị 05. Một năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kiên trì, quyết tâm đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, đạt được một số kết quả nổi bật. Bên cạnh đó, cũng còn những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục trong thời gian tới, để việc thực hiện Chỉ thị 05 thật sự đạt hiệu quả mong muốn.
Một năm qua, nhận thức về Chỉ thị 05, về nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được nâng lên. Không chỉ trong cán bộ, đảng viên, mà về cơ bản, nhân dân đều biết tới chủ trương lớn của Đảng ta về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị đang đi dần vào cuộc sống, trở nên thiết thực hơn, hiệu quả hơn.
Trên cơ sở chỉ đạo của trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đảng ủy cấp dưới và giao nhiệm vụ cụ thể cho các ban xây dựng Đảng, các đảng ủy trực thuộc tổ chức triển khai thực hiện. Việc triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của các cấp ủy đã chủ động hơn, tổ chức khoa học hơn, phù hợp với điều kiện, đặc thù, nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị, có phân công nhiệm vụ cụ thể. Để tăng hiệu lực chỉ đạo thực hiện, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, Tỉnh ủy Quảng Bình, Tỉnh ủy Bạc Liêu đã ban hành Chỉ thị của Ban Thường vụ thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị.
Việc học tập chuyên đề năm 2016 “Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2017 "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ", nhìn chung được thực hiện nghiêm túc với nhiều hình thức đa dạng.
Nhiều nơi tổ chức học tập trực tuyến tới cấp xã; có nơi tổ chức truyền hình cho toàn thể nhân dân cùng theo dõi, sau đó ghi đĩa hình phát về chi bộ, tổ chức cơ sở của các đoàn thể để tiếp tục nghiên cứu trong sinh hoạt chuyên đề. Một số ban thường vụ cấp ủy ban hành các chỉ thị về đổi mới lề lối, tác phong làm việc, cải cách thủ tục hành chính, nêu cao trách nhiệm công vụ, chống tham nhũng, lãng phí đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu, tạo không khí đồng thuận, ủng hộ trong xã hội.
Ngày càng xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, nhiều đồng chí đứng đầu cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, cán bộ, đảng viên gương mẫu, đi đầu học tập và làm theo Bác, đổi mới tác phong công tác, gần dân, sát dân, vì dân, “nói đi đôi với làm”, “nói ít, làm nhiều”, dám làm, dám chịu trách nhiệm, làm việc khoa học... được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Ở một số nơi, nội dung nêu gương đã được cụ thể hóa, nhất là với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Để phát huy trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã công bố công khai nội dung đăng ký của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy cùng với 14 đồng chí bí thư cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII và thực hiện Chỉ thị 05 trên báo Đồng Khởi, được nhân dân hoan nghênh.
Nhiều cấp ủy các cấp thể hiện sự năng động, sáng tạo, tìm tòi, lựa chọn và quyết tâm thực hiện Chỉ thị 05 bằng những phương pháp mới, cách làm hay, thiết thực, hiệu quả, trong đó có việc kế thừa kinh nghiệm và kết quả gần 15 năm liên tục thực hiện việc học tập và làm theo Bác. Việc đưa chuyên đề vào sinh hoạt chi bộ hằng tháng trở thành nền nếp ở nhiều địa phương, đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở cơ sở và trong các cơ quan, đơn vị. Nhiều đơn vị, địa phương nghiêm túc thực hiện xây dựng kế hoạch làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác.
Việc xây dựng kế hoạch tu dưỡng phấn đấu của cá nhân tuy chưa được nhiều nhưng nhiều nơi đã gắn với cam kết trong triển khai thực hiện Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII để lựa chọn những việc làm cụ thể, thiết thực, có ý nghĩa, bảo đảm tính khả thi. Việc bổ sung và xây dựng chuẩn mực đạo đức ngày càng thiết thực, bám sát điều kiện thực tế, nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công tác, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao. Nhiều nơi đã hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dần trở thành việc làm thường xuyên, nền nếp...
Việc thực hiện Chỉ thị 05 tiếp tục góp phần vào kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Những chuyển biến tích cực trong tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu, phong cách làm việc gần dân, trọng dân, vì dân... của nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt đã góp phần giải quyết dứt điểm thành công nhiều vụ việc nổi cộm, phức tạp, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương, đơn vị.
Nhiều địa phương xác định khâu đột phá gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng của Bác; đề ra những giải pháp thiết thực, giải quyết được nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, tồn đọng nhiều năm, như: giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai, thực hiện chế độ, chính sách, cải cách thủ tục hành chính... được nhân dân ghi nhận.
Hầu hết các tỉnh, thành phố đều tập trung vào công tác cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh và đạt được kết quả rất tích cực. Xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2016 cho thấy, tất cả các địa phương đều có nỗ lực cải cách rất ấn tượng, khoảng cách điểm số giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất được thu hẹp chỉ còn 17 điểm, thấp nhất trong 12 năm qua (năm 2006, khoảng cách này là 33 điểm).
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục.
Vẫn còn những cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về sự cần thiết, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 khóa XI và XII; chưa thấy được việc triển khai thực hiện Chỉ thị 05 vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vừa là yêu cầu cấp bách trước mắt; là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Việc triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của một số cấp ủy vẫn còn lúng túng. Việc xây dựng kế hoạch, hướng dẫn của cấp ủy thì kịp thời, đầy đủ, nhưng có nội dung còn sao chép, thụ động. Tính chủ động, sáng tạo, sự phù hợp với điều kiện, đặc thù của đơn vị, địa phương còn hạn chế; còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Việc thực hiện Chỉ thị 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở các cơ quan nhà nước chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều bộ, ngành chưa triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW theo yêu cầu của Bộ Chính trị.
Trong tổ chức quán triệt Chỉ thị 05, học tập những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, về hình thức thì phong phú nhưng về nội dung chưa thật đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất, có nơi làm còn chậm theo kế hoạch của trung ương. Nhiều đơn vị, địa phương lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch làm theo Bác của tập thể và cá nhân; số lượng nội dung công việc cụ thể, đăng ký học tập, làm theo Bác chưa được nhiều.
Một số nơi hướng dẫn đăng ký làm theo chưa sát yêu cầu thực tế của đơn vị mình, thiếu cụ thể, nên khó kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Một số nơi việc đăng ký mang tính hình thức, sao chép lẫn nhau. Vấn đề gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là việc nêu gương của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu ở một số địa phương, đơn vị chưa được nhiều, kết quả chưa rõ. Trong khi đó, vẫn còn những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân...
Công tác tuyên truyền, giáo dục tuy được các cấp ủy chú trọng hơn nhưng chưa thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức chưa thật phong phú, đa dạng, phù hợp. Tuyên truyền điển hình tiên tiến còn ít, thiếu sự thuyết phục. Tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân, nhất là vùng đồng bào có đạo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thanh, thiếu niên, thanh niên công nhân ở các khu công nghiệp, thanh niên nông thôn còn nhiều lúng túng, bất cập...
Để phát huy những kết quả bước đầu quan trọng đạt được, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện Chỉ thị 05 trong năm vừa qua, thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp quan trọng sau đây:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, nhất là trong sinh hoạt chi bộ. Yêu cầu đặt ra là, chi bộ phải là nơi đảng viên thường xuyên nghiên cứu, trao đổi, học tập về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Lấy chi bộ là cơ sở để tổ chức học tập và xây dựng kế hoạch làm theo các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, quan tâm phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, các ngành, các cấp theo phương châm trên trước, dưới sau. Người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương có trách nhiệm nêu gương thực hiện Chỉ thị 05 có kết quả cụ thể. Đây vừa là yêu cầu bắt buộc, vừa là ý thức tự giác của người đứng đầu trước đảng bộ và nhân dân địa phương, đơn vị. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề bức xúc, nổi cộm của địa phương, cơ quan, đơn vị, bắt đầu từ yêu cầu nâng cao trách nhiệm tự giác thực hiện của người đứng đầu. Tập trung xác định nội dung đột phá nhằm tạo chuyển biến rõ nét.
Ba là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, chú trọng việc triển khai thực hiện Chỉ thị 05 trong hệ thống hành chính, đối với công chức, viên chức, quan tâm tới những nơi có biểu hiện yếu kém kéo dài, chậm chuyển biến.
Triển khai thực hiện đồng bộ ở tất cả các tầng lớp nhân dân, tất cả các nhóm xã hội. Ban thường vụ cấp ủy các cấp tập trung suy nghĩ, bàn bạc, tìm giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị 05 đối với đồng bào có đạo, đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, thanh niên công nhân, thanh niên nông dân; trong các doanh nghiệp, các đơn vị không có tổ chức cơ sở đảng.
Bốn là, tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân, giảng dạy ở các học viện, trường chính trị, trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp theo yêu cầu của Chỉ thị 05 và Kế hoạch 03 của Ban Bí thư phải được hoàn thành đúng yêu cầu và thời gian đề ra.
Năm là, cấp ủy các cấp cần tập trung làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo đúng kế hoạch toàn khóa và hằng năm đã được xây dựng.
Xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa. Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn cấp huyện giai đoạn 2017 - 2020.
Đề án nhằm cụ thể hóa Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí huyện nông thôn mới và quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2020, có 30% số huyện được lập quy hoạch xây dựng vùng huyện (ưu tiên các huyện có mức độ đô thị hóa cao).
Bên cạnh đó, xác định các định hướng của một số ngành và lĩnh vực trong quá trình xây dựng nông thôn mới nhằm phục vụ quá trình tái cơ cấu nông nghiệp và phục vụ dân sinh gắn với các vùng sản xuất hàng hoá lớn trên địa bàn huyện và từng tiểu vùng trong huyện, làm tiền đề cho việc phát triển đô thị trên địa bàn huyện.
Xác định hướng phát triển, nguyên tắc áp dụng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cho các khu chức năng, cơ sở hạ tầng nông thôn tại các huyện có tốc độ đô thị hoá cao (thuộc các đô thị lớn) để vừa đảm bảo yêu cầu xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2016 - 2020, đồng thời hạn chế đầu tư lãng phí hoặc gây bất cập cho quá trình phát triển đô thị.
Một trong các định hướng theo ngành và lĩnh vực là xây dựng các trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất trên địa bàn huyện. Cụ thể, hình thành các trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất cấp huyện gắn với các thị trấn, trung tâm cụm xã, các cụm công nghiệp và các thị tứ (hiện có hoặc dự kiến hình thành trên địa bàn huyện) gắn kết thuận lợi với hệ thống hạ tầng khung, đảm bảo phục vụ cho tiểu vùng trong huyện nhằm phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ, gắn với vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn trong tiểu vùng.
Các trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất cấp huyện gồm các chức năng: sản xuất công nghiệp (chủ yếu là chế tạo nông cụ, công nghiệp chế biến gắn với các vùng sản xuất chuyên canh); về thương mại (chuyên doanh bán buôn nông sản và vật tư nông nghiệp, chế biến bảo quản, kho bãi); về dịch vụ sản xuất nông nghiệp, tập trung phát triển các lĩnh vực (khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, quản lý chất lượng), dịch vụ thị trường (phân tích, dự báo thị trường; thông tin thị trường, xúc tiến thương mại; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý chất lượng; bảo hiểm rủi ro, phòng chống thiên tai; bảo vệ môi trường) và dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống (giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao).
Đối với khu vực nông thôn trong các đô thị lớn có tốc độ đô thị hoá cao, cần bổ sung thêm một số chức năng khác như nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; khai thác du lịch, thương mại kết hợp sản xuất nông nghiệp.
Phát triển các điểm dân cư tập trung trên địa bàn xã, trong đó, đối với khu vực nông thôn ngoài đô thị cần xác định các điểm dân cư có tiềm năng phát triển để tập trung đầu tư, xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu bố trí dân cư mới phát triển hàng năm trên địa bàn xã.
Định hướng tổ chức không gian các điểm dân cư tập trung theo vùng: Đồng bằng sông Hồng, Trung du, Đồng bằng vùng Duyên hải Miền Trung và địa hình núi thấp thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đông Nam Bộ điểm dân cư tập trung được tổ chức trên cơ sở các thôn, xóm, bản; vùng Tây Nguyên, khu vực địa hình núi cao thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc, khu vực miền núi vùng Duyên hải Miền Trung được tổ chức theo mô hình cụm thôn, bản; vùng Đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức trên cơ sở thôn, ấp, tuyến dân cư, là sự kết hợp giữa dân cư hiện có theo tuyến và dân cư mới phát triển tập trung.
Đối với khu vực nông thôn trong đô thị cần phải có các giải pháp tiết kiệm đất xây dựng (có thể xây dựng nhà 2 - 3 tầng). Tiến hành chỉnh trang, cải tạo các điểm dân cư hiện có, mở rộng và xây dựng khu dân cư theo hướng đô thị hóa nông thôn, đặc biệt chú trọng vào cải tạo, mở rộng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật như đường giao thông, cấp thoát nước... ngay trong điểm dân cư hiện có.
Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương  lựa chọn 01 huyện để triển khai thí điểm các định hướng và giải pháp xác định trong Đề án với một số tiêu chí: Gắn với vùng sản xuất nông nghiệp tập trung; có tỷ lệ đô thị hoá trên địa bàn huyện cao so với các huyện trong toàn tỉnh; cơ bản hoàn thành quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới; có kế hoạch xây dựng huyện nông thôn mới trong giai đoạn 2017 - 2020.
Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia lựa chọn 08 địa phương triển khai thí điểm gồm: Lào Cai, Bắc Giang, Nghệ An, Ninh Thuận lựa chọn các huyện nằm ngoài khu vực đô thị; Hà Nội, Cần Thơ, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu lựa chọn các huyện nằm trong đô thị và các huyện có kế hoạch trở thành đô thị năm 2020. Ủy ban nhân dân các tỉnh còn lại lựa chọn 01 huyện đáp ứng tiêu chí lựa chọn huyện thí điểm để triển khai trong giai đoạn 2017 - 2020.
Năm 2017 tiến hành rà soát bổ sung các quy hoạch xây dựng (quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới, quy hoạch xây dựng vùng huyện), quy hoạch phát triển ngành và lĩnh vực liên quan đến xây dựng điểm trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất trên địa bàn huyện. Lập quy hoạch xây dựng vùng huyện các huyện được lựa chọn thí điểm. Lập quy hoạch chi tiết xây dựng các điểm trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất trên địa bàn huyện.
Giai đoạn 2018 - 2020, thực hiện đầu tư xây dựng các điểm trung tâm dịch vụ hỗ trợ sản xuất trên địa bàn huyện. Tổ chức tổng kết, đánh giá và nhân rộng ra các địa phương giai đoạn sau 2020. đầu trang(

TRÁI KHOÁY
Ngày 12/5, trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại (Hải Dương), cho biết: Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Công ty (26/4/1982 - 26/4/2017), Công đoàn Công ty (19/11/1982 - 19/11/2017), lãnh đạo đơn vị đã thực hiện ý tưởng tặng quà lưu niệm cán bộ, người lao động.
"Sau khi được lãnh đạo đơn vị, công đoàn thông qua đề xuất, đơn vị đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần gốm Chu Đậu thiết kế sản xuất vật phẩm lưu niệm Bình hoa Thiên Hương Gốm Chu Đậu vẽ vàng kim, mã CD05057 VV.
Cụ thể, sản phẩm quà tặng làm Sản phẩm được làm bằng chất liệu Gốm vẽ vàng kim; tiêu chuẩn hàng gốm sứ loại I.
Đơn giá sản phẩm là 1 triệu đồng/1 sản phẩm. Tổng số tiền mua quà lưu niệm là 1.350.000.000 đồng (một tỷ ba trăm năm mươi triệu đồng chẵn). Số tiền trên sẽ được trích từ quỹ phúc lợi của công ty.
Ý nghĩa biểu trưng của sản phẩm như vậy, nhưng một số cán bộ, công nhân viên ở một số Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại tỏ ra không vừa lòng với cách làm của lãnh đạo, công đoàn đơn vị.
Trong lúc ngành nhiệt điện còn rất nhiều việc phải như tăng lương, cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên thì việc công ty trích tiền trong quỹ phúc lúc lợi của đơn vị để mua vật phẩm lưu niệm trên là chưa hợp lý.
Nếu quy đổi món quà lưu niệm này thành tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên mang về cho gia đình thì sẽ thiết thực hơn nhiều so với sản phẩm tượng trưng.
Chúng tôi nhận 1 món quà được mua từ chính tiền phúc lợi của đơn vị mình, tặng lại cho mình thì không cần thiết, lãng phí. Thế khác nào lấy tiền của mình tặng lại… cho mình”, một cán bộ xin đề nghị giấu tên cho biết.
Một số ý kiến khác thì cho rằng, nếu tính theo giá thị trường thì những chiếc bình hoa làm bằng gốm này có giá khoảng 700 nghìn đồng/chiếc.
Nếu mua nhiều sẽ được miễn phí tiền in. Như vậy, việc chi 1 triệu đồng để mua 1 chiếc bình gốm làm quà lưu niệm là không hợp lý và chưa đúng với tinh thần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Về việc này, ông Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, một số người có ý kiến phản đối công ty tặng vật phẩm lưu niệm là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, việc thực hiện ý tưởng này đã được Công đoàn, Ban giám đốc công ty nhất trí cao.
"Có thể có một số đối tượng không đồng ý với chủ trương này nên mới có ý kiến như vậy. Tuy nhiên, việc tặng quà này đã được sự nhất trí cao của tập thể...", ông Tuấn nói.
Bà Nguyễn Thị Thậm - Chủ tịch Công đoàn Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại cho rằng, vật phẩm lưu niệm này là món quà đầy tự hào, ý nghĩa đối với người lao động, nên không thể gọi là lãng phí được.
"Trước khi trao quà lưu niệm, chúng tôi đã thưởng mỗi công nhân 10 triệu đồng nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập công ty nếu họ làm đủ chỉ tiêu. Còn việc tặng vật phẩm lưu niệm cho cán bộ, công nhân viên trong dịp này thì quý quá đi chứ. Tại sao lại có thể nói là lãng phí được", bà Thậm phản bác. (Giáo Dục Việt Nam 15/5) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Kế hoạch nghìn tỷ USD của TQ để lập trật tự kinh tế thế giới mới. Từ khi công bố năm 2013, sáng kiến "Một vành đai Một con đường" của Chủ tịch Tập Cận Bình thể hiện tham vọng của Bắc Kinh muốn lập trật tự kinh tế thế giới mới.
Dọc những ngọn núi giữa rừng già ở một quốc gia Đông Nam Á, đông đảo kỹ sư Trung Quốc đang khoan hàng trăm đường hầm và xây cầu để hỗ trợ cho dự án đường sắt dài gần 420 km. Đây là dự án tham vọng kết nối 8 quốc gia châu Á trị giá 6 tỷ USD.
Tại Pakistan, người ta đang xây nhiều nhà máy điện hạt nhân để giải quyết tình trạng thiếu điện kinh niên.  Nguồn tiền do Trung Quốc cấp là một phần trong kế hoạch đầu tư tổng thể trị giá 46 tỷ USD.
Các nhà hoạch định Trung Quốc cũng đang vẽ những tuyến đường sắt nối từ Budapest (Hungary) đến Belgrade (Serbia), tạo con đường huyết mạch khác để hàng hóa Trung Quốc chảy vào châu Âu, với điểm xuất phát là một cảng biển ở Hy Lạp cũng do Trung Quốc sở hữu.
Những dự án hạ tầng khổng lồ trên, cùng hàng trăm công trình tương tự ở châu Á, châu Phi và châu Âu, hình thành nên tầm nhìn và tham vọng kinh tế, địa chính trị của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình qua sáng kiến "Một vành đai, một con đường" (OBOR).
Nhà lãnh đạo Trung Quốc đang cố gắng hình thành các mối quan hệ để mở ra thị trường mới cho những công ty xây dựng nước này, xuất khẩu mô hình "phát triển do nhà nước dẫn đầu" nhằm làm sâu sắc thêm các mối quan hệ kinh tế và ngoại giao sẵn có.
OBOR đưa ra những dự án đầu tư lớn chưa từng có trong lịch sử, hứa hẹn các dự án hạ tầng có thể lên tới 1 nghìn tỷ USD và mọc lên ở hơn 60 quốc gia.
Qua hội nghị cấp cao hôm 14/5 ở Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình hướng đến sử dụng nguồn lực tài chính của Trung Quốc và những quan điểm hình thành toàn cầu hóa mới, bỏ qua những luật lệ do các thể chế già cỗi phương Tây thiết lập. Mục tiêu là xây dựng trật tự kinh tế mới, thu hút các nước và các công ty xích lại gần quỹ đạo của Trung Quốc.
Sáng kiến OBOR của Trung Quốc được xem là phiên bản tham vọng hơn "Kế hoạch Marshall", nỗ lực tái thiết hậu thế chiến của Mỹ. Khi đó, Mỹ mở rộng nguồn viện trợ để giúp đỡ các đồng minh quân sự ở châu Âu. Ngày nay, Trung Quốc triển khai các khoản vay hàng trăm tỷ đến khắp nơi trên thế giới với hy vọng kết nạp thêm những người bạn mới.
Kế hoạch của ông Tập hoàn toàn trái ngược với nỗ lực "Nước Mỹ trước tiên" của Tổng thống Trump. Ngay sau khi nhậm chức, ông Trump đã ký sắc lệnh để rút nước Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
"Theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ giống như là tự khóa chính mình trong căn phòng tối", ông Tập Cận Bình phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới hồi tháng 1. Ông Tập đang nỗ lực quảng bá vai trò lãnh đạo toàn cầu bằng chính những kinh nghiệm của Bắc Kinh, nhấn mạnh hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nước.
Trung Quốc dường như đang tiến quá nhanh, tham vọng quá lớn nên họ sẵn sàng chấp nhận những sai sót ngắn hạn để đạt được mục đích dài hạn. Điều này thể hiện qua những việc cấp vốn vay cho các dự án tại những đất nước có tình trạng tham nhũng trầm trọng như Kenya hoặc Pakistan, đổi lại là thắt chặt các mối quan hệ ngoại giao và quân sự.
Mỹ và nhiều đồng minh châu Âu, châu Á có cách tiếp cận thận trọng hơn với sáng kiến của Trung Quốc. Australia đã bác bỏ đề nghị tham gia của Trung Quốc.
Ấn Độ mới đây cũng tỏ ra hoài nghi về khả năng hoàn trả vốn, đồng thời tức giận vì một dự án xây đường của Trung Quốc đi qua khu vực Kashmir do Pakistan chiếm đóng. Kashmir vốn là điểm nóng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan trong nhiều thập kỷ.
Tuy nhiên, rất khó để bất kỳ lãnh đạo nước ngoài nào, hoặc lãnh đạo các tập đoàn đa quốc gia hay ngân hàng quốc tế làm ngơ trước nỗ lực xây dựng lại thương mại toàn cầu của Trung Quốc.
Đức đã cử Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Brigitte Zypries đến dự hội nghị ở Bắc Kinh. Những tập đoàn công nghiệp phương Tây lớn như General Electric và Siemens cũng đến dự, trong bối cảnh các công ty này cũng muốn thu hút những hợp đồng lớn từ Trung Quốc.
Ngay cả chính quyền Trump cũng "nâng cấp" tư cách phái đoàn của Mỹ. Ban đầu, nước này chỉ định cử một quan chức Bộ Thương mại là Eric Branstad đi dự.
Tuy nhiên, trưởng đoàn chính thức của Mỹ sau đó được thay đổi là ông Matthew Pottinger, giám đốc cao cấp phụ trách châu Á ở Hội đồng An ninh Quốc gia. Điều này cho thấy Nhà Trắng đang tiếp tục mối duy trì đang nồng ấm với Chủ tịch Tập Cận Bình.
Các dự án hiển nhiên phục vụ lợi ích kinh tế của Trung Quốc. Khi tăng trưởng kinh tế nội địa đang chậm lại, Trung Quốc lại sản xuất ra nhiều thép, xi măng và máy móc cơ khí cao hơn nhu cầu trong nước. Do vậy, ông Tập phải tìm đến phần còn lại của thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, để duy trì hoạt động của cỗ máy kinh tế.
"Chủ tịch Tập tin rằng kế hoạch lâu dài bao gồm những thế hệ hiện tại và tương lai của Trung Quốc sẽ thúc đẩy tăng trưởng của đại lục và toàn cầu", Cao Wenlian, Vụ trưởng tại Trung tâm hợp tác quốc tế thuộc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, nói.
Nhiều quốc gia trong chương trình OBOR mà Trung Quốc nhắm tới đều có những nhu cầu phát triển trọng yếu. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước tính rằng những nền kinh tế châu Á mới nổi cần 1,7 nghìn tỷ USD/năm cho các dự án hạ tầng nhằm duy trì tăng trưởng, chống đói nghèo và ứng phó biến đổi khí hậu.
Sau khi Mỹ rút khỏi TPP, ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực đã giảm dần. Và dự án đường sắt mà Trung Quốc đang xây ở Đông Nam Á chính là mối liên kết tới các nước mà Trung Quốc muốn mở tầm ảnh hưởng.
Những khoản đầu tư vào nhà máy điện ở Pakistan, kế hoạch nâng cấp một đại lộ lớn và khoản chi 1 tỷ USD để mở rộng cảng biển đều nằm trong tính toán của Bắc Kinh.
Qua thúc đẩy tăng trưởng ở Pakistan, Bắc Kinh yêu cầu việc giảm dần sự bành trướng của các phần tử khủng bố Pakistan dọc biên giới và xâm nhập vào vùng Tân Cương. Về lợi ích quân sự, Hải quân Trung Quốc có cơ hội tiếp cận trong tương lai với hải cảng Gwadar trong 40 năm.
Ukraine hủy bỏ dự luật gây tranh cãi về chống tham nhũng. Các nhà lập pháp Ukraine ngày 17/5 đã chịu nhượng bộ trước sức ép từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và đồng ý hủy bỏ một dự luật gây nhiều tranh cãi liên quan việc chống tham nhũng, vốn khiến những người chỉ trích lo ngại có thể làm suy yếu cuộc chiến chống tham nhũng có tầm quan trọng sống còn tại nước này.
Quyết định gác lại dự luật nêu trên được đưa ra khi một phái đoàn IMF tới Kiev gặp Thủ tướng Volodymyr Groysman​ trong bối cảnh các đồng minh phương Tây của Ukraine lo ngại dự luật sẽ giúp bảo vệ các chính trị gia hàng đầu cũng như các nhà tài phiệt của nước này.
Hãng tin Interfax dẫn lời Chủ tịch Ủy ban thực thi pháp luật Quốc hội Ukraine, ông Andriy Kozhemyakin thừa nhận rằng trước những yêu cầu đẩy mạnh chống tham nhũng từ các nước đồng minh, trong đó có các thể chế quốc tế, ông đã đề nghị các nghị sỹ Ukraine hủy bỏ dự luật này.
Ủy ban của ông Kozhemyakin dự kiến sẽ thành lập một nhóm đặc trách với mục đích cuối cùng là hủy bỏ dự luật đã được trình lên cơ quan lập pháp.
Cục chống tham nhũng quốc gia Ukraine (NABU) vốn được IMF ca ngợi là một mô hình tích cực cho cam kết của chính quyền Kiev trong việc theo đuổi những thay đổi nền tảng của nước này.
Tuy nhiên, NABU đã phải đối mặt với sự phản đối quyết liệt kể từ khi cơ quan này đi vào hoạt động cuối năm 2015 với các thành phần từ các tổ chức như Văn phòng Tổng công tố và Cơ quan An ninh Ukraine (SBU).
Các nhà phân tích cho rằng trên cơ sở như vậy, hai đơn vị sẽ bị các lợi ích kiểm soát và không thể tiến hành điều tra độc lập các sai phạm tài chính ở cấp cao nhất.
Dự luật nêu trên bị nhiều ý kiến phản đối, trong đó có Nhóm Các nước công nghiệp phát triển (G7), bởi có thể cho phép các công tố viên hoặc các nhân viên SBU giành lấy các vụ điều tra từ NABU và sau đó có thể dập đi các vụ điều tra.
Trong một phát biểu, Đại sứ Italy Davide La Cecilia​ hôm 15/5 nhấn mạnh G7 bày tỏ lo ngại về bản chất của dự luật được đề xuất và "nguy cơ chống tham nhũng" của Ukraine.
Trong khi đó, Trưởng phái đoàn IMF tại Ukraine, ông Ron van Rooden đã yêu cầu Thủ tướng Groysman phải đảm bảo cho NABU hoạt động độc lập và hiệu quả.
Quan chức IMF này nêu rõ nếu dự luật gây tranh cãi nêu trên được thông qua, quyết định đó sẽ đi ngược lại với cam kết của các cơ quan chức năng Ukraine trong nỗ lực duy trì quyền hạn độc lập của NABU trong hoạt động điều tra tham nhũng nhằm vào các quan chức cấp cao./. đầu trang(