Xem ngày trước
ĐIỂM BÁO
Xem ngày kế tiếp

Ngày 23 tháng 05 năm 2017
BẢO VỆ RỪNG
QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG

BẢO VỆ RỪNG
Ða dạng sinh học (ÐDSH) ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong đời sống tự nhiên và con người, là cơ sở bảo đảm an ninh lương thực; duy trì nguồn gien vật nuôi, cây trồng; cung cấp các vật liệu cho xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu, nhất là tạo nên các cảnh quan thiên nhiên đẹp cho ngành du lịch phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt tình trạng suy thoái về môi trường, suy giảm hệ sinh thái ảnh hưởng sức thu hút của ngành du lịch.
Phó Tổng cục trưởng Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Nguyễn Thế Ðồng cho biết: Việt Nam có chiều dài hơn 3.260 km đường biển, với 125 bãi tắm lớn, nhỏ; khoảng 2.273 đảo ven bờ; 44 vũng, vịnh nhỏ với các hệ sinh thái phong phú (rừng trên cạn, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển…) phân bố từ bắc chí nam. Do vậy, du lịch được đánh giá là có nhiều tiềm năng và thế mạnh. Theo Báo cáo thường niên của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới công bố năm 2016, ngành du lịch đã đóng góp 6,6% cho GDP của Việt Nam. Theo đó, du lịch Việt Nam đứng thứ 40 trong số 184 quốc gia về quy mô đóng góp trực tiếp vào GDP và xếp thứ 55 về quy mô tổng đóng góp vào GDP quốc gia, tạo ra hơn sáu triệu việc làm. Ðáng chú ý, đầu tư vào lĩnh vực du lịch đạt khoảng hơn 113 nghìn tỷ đồng (năm 2015), chiếm 10,4% tổng đầu tư cả nước.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch không bền vững sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường, ÐDSH như lượng nước thải, rác thải không được thu gom, xử lý sẽ làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng các hệ sinh thái. Nhiều khách sạn, nhà hàng, đường sá được xây dựng thiếu quy hoạch trong các khu bảo tồn, hoặc chuyển đổi chức năng của các phân khu bảo tồn để phục vụ mục đích du lịch đã và đang gây chia cắt sinh cảnh, suy giảm chất lượng các hệ sinh thái như hệ sinh thái rừng, rạn san hô, thảm cỏ biển; gây tác động xấu tới nơi cư trú của các loài động vật hoang dã, ảnh hưởng khả năng di chuyển, kiếm mồi, sinh sản,... của chúng. Ðáng lo ngại, theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ước tính mỗi năm Việt Nam đang mất đi ít nhất 69 triệu USD thu nhập từ ngành du lịch, do hệ thống xử lý vệ sinh nghèo nàn; ô nhiễm môi trường, làm giảm sức hút của du lịch…
Theo Ths Hoàng Ðình Chiều (Viện Nghiên cứu hải sản), Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ÐDSH biển do có những hoạt động khai thác phá vỡ các sinh cảnh biển như việc chuyển đổi đất rừng, các vùng đất ngập nước thành đất canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, đô thị hóa, phát triển du lịch đã và đang làm mất hay phá vỡ các hệ sinh thái, nơi cư trú và các sinh cảnh tự nhiên. Chất lượng nước biển của nước ta đang xuống cấp do các khu chăn nuôi ở cửa sông, ven biển xả rác thải, thức ăn ôi thiu khiến môi trường bị ô nhiễm. Nhiều thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các chất thải khác nhau không được xử lý đổ thẳng ra môi trường, là nguyên nhân đe dọa tới ÐDSH…
Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường (TN và MT) Nguyễn Linh Ngọc cho biết: Tính đến nay, đã có 43 tỉnh, thành phố trên cả nước xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động về ÐDSH; 16 tỉnh, thành phố xây dựng và ban hành Quy hoạch bảo tồn ÐDSH cấp tỉnh. Ðáng mừng, diện tích các khu bảo tồn có tăng lên, một số loài nguy cấp đã được phục hồi và thả lại tự nhiên; nhiều khu bảo tồn có ý nghĩa quốc tế được công nhận. Trong đó, có tám khu Ramsar, chín khu Dự trữ sinh quyển thế giới; hai khu Di sản thế giới và năm khu Vườn di sản ASEAN…
Tuy nhiên, trên thực tế, ÐDSH của Việt Nam vẫn đang trên đà suy thoái. Vấn đề này không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng đang phải đối mặt với sự suy thoái về ÐDSH do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngày quốc tế ÐDSH năm 2017 được Liên hợp quốc chọn chủ đề "Ða dạng sinh học và Du lịch bền vững", nhằm tạo cơ hội nâng cao nhận thức và hành động đối với những đóng góp quan trọng của du lịch bền vững cho sự phát triển kinh tế, bảo tồn và sử dụng bền vững ÐDSH đối với cộng đồng; huy động sự tham gia của tất cả các bên liên quan làm cho du lịch trở thành chất xúc tác thay đổi tích cực về kinh tế, nhưng vẫn bảo đảm các giá trị của ÐDSH…
Hưởng ứng Ngày quốc tế ÐDSH năm 2017, Bộ TN và MT có văn bản đề nghị các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp các cơ quan chức năng tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của người dân, về giá trị, vai trò của ÐDSH, bảo tồn ÐDSH và du lịch bền vững đối với phát triển kinh tế - xã hội; tuyên truyền thực hiện quy định pháp luật, huy động cộng đồng tham gia các hoạt động bảo tồn, phát triển du lịch sinh thái, du lịch bền vững ÐDSH…(Nhân Dân 21/5) đầu trang(
Phải cân bằng giữa phát triển và bảo tồn
Dự án xây dựng quần thể du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp, vui chơi giải trí Cát Bà (Hải Phòng) vừa được khởi công khiến giới chuyên gia lo ngại về tác động của siêu dự án này lên môi trường và hệ sinh thái nơi đây.
Trong đó, tôi đặc biệt lo lắng về sự tác động của siêu dự án này đối với loài voọc đang có nguy cơ tuyệt chủng tại Cát Bà.
Thật ra các mối đe dọa đối với các khu vực cần bảo tồn là vấn đề xảy ra trên toàn thế giới.
Tại các nước đang phát triển, các mối đe dọa thường lớn hơn bởi vì các quốc gia này phải chịu áp lực lớn từ yêu cầu phát triển kinh tế và du lịch nhanh chóng mà không xem xét đến cái giá lâu dài (hay thậm chí là ngắn hạn) phải trả về 
mặt môi trường.
Theo quan điểm của tôi, chúng ta cần phải có sự cân bằng giữa phát triển du lịch, kinh tế và bảo tồn đời sống hoang dã. Làm du lịch và phát triển kinh tế là chuyện hiển nhiên.
Nếu được lên kế hoạch và thực thi một cách cẩn trọng, việc đó có thể mang lại lợi ích to lớn cho một khu vực, cho người dân sống ở đó cũng như công tác bảo tồn tại địa phương. Đừng bao giờ để phải xảy ra trường hợp đánh đổi thứ này để đạt được thứ khác.
Để đạt được sự cân bằng đó, chúng ta cần phải có quá trình lập kế hoạch lâu dài và thận trọng với sự tham gia của các chuyên gia bảo tồn.
Việc tham khảo chuyên gia cũng nên được thực hiện từ giai đoạn ban đầu để họ có thể đưa ra những ý kiến tốt nhằm bàn bạc giải pháp tốt nhất, đáp ứng được những điều kiện về mặt bảo tồn và cả những yêu cầu về mặt phát triển.
Việc tham khảo chuyên gia không phải là quá trình dễ dàng và việc này mất rất nhiều thời gian. Vì vậy mà nhiều người đã đẩy nhanh các kế hoạch của họ bằng cách bỏ qua bước tham vấn chuyên gia, hoặc chỉ tham khảo những người dễ dàng đồng ý với bất cứ 
thứ gì mà công ty đầu tư muốn.
Dự án bảo tồn voọc cát Bà (Cat Ba Langur Conservation Project - CBLCP) bắt đầu từ tháng 11-2000, một năm sau khi một khảo sát chỉ ra rằng quần thể voọc ở đây đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
CBLCP được sở thú Allwetterzoo ở thành phố Münster cùng Hiệp hội Động vật học bảo tồn các loài và quần thể (ZGAP) của Đức cấp vốn.
Dự án này nhằm ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài voọc và bảo tồn đa dạng sinh học của quần đảo Cát Bà.
Đồng thời làm giảm các tác động đến tài nguyên thiên nhiên bên trong quần đảo Cát Bà, cũng như tăng cường lồng ghép việc bảo tồn và bảo vệ môi trường vào kế hoạch phát 
triển của địa phương.
Vì vậy chúng tôi và các tổ chức bảo tồn khác rất quan ngại về các tác động của một dự án lớn về du lịch ở Cát Bà.
Không một dự án nào mà không có ảnh hưởng gì hết, mỗi sự vật, mỗi con người đều có tác động lên môi trường và các loài sống trong môi trường đó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là tác động đó như thế nào và mức độ tác động ra sao?
Riêng đối với loài voọc, dẫu không có sự phát triển cơ sở hạ tầng nào trong khu vực chúng sinh sống thì sự gia tăng hoạt động của con người (như khách du lịch gia tăng) cũng khiến cuộc sống của chúng bị xáo trộn.
Con người càng gần chúng, môi trường sống của chúng sẽ trở nên ồn ào hơn, có thêm nhiều ánh sáng chiếu vào ban đêm, gia tăng nguy cơ liên quan đến việc tiếp xúc giữa voọc và con người (điều này hiện là mối lo lớn do khả năng lây nhiễm bệnh)...
Voọc không phải là loài đặc hữu hoặc đang có nguy cơ tuyệt chủng duy nhất ở Cát Bà và các đảo, vùng biển xung quanh. Có đến 3.860 loài khác nhau ở đây.
Trong đó, ít nhất 21 loài là đặc hữu ở khu vực Hạ Long - Cát Bà, 102 loài thực vật và động vật có nguy cơ tuyệt chủng hoặc tuyệt chủng nghiêm trọng trong khu vực, 130 loài được liệt kê trong sách đỏ của Việt Nam và Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN).
Khi triển khai dự án ở đây, những người có trách nhiệm phải chú ý đến bức tranh toàn cảnh vì mỗi loài đều phải tồn tại trong một môi trường sống nhất định và chúng không thể nào sống sót nếu không có môi trường đó.
Làm việc cho Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Vietnam), tôi thấy sự phát triển cơ sở hạ tầng du lịch quy mô lớn và nhanh chóng trong những cảnh quan thiên nhiên giá trị của Việt Nam đi cùng với các nguy cơ về môi trường.
Thông qua báo chí, tôi nghe nói chủ đầu tư xây dựng quần thể du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp tại Cát Bà. Tôi thấy cần phải phân biệt giữa du lịch sinh thái và những hình thức du lịch khác xuất hiện trong các khu vực thiên nhiên.
Du lịch sinh thái có thể được định nghĩa là “du lịch trách nhiệm đối với các khu vực thiên nhiên, bảo tồn môi trường, duy trì sự sung túc của người dân địa phương”.
Thật không may, theo đánh giá của tôi, hầu hết dự án phát triển du lịch ở Việt Nam không đáp ứng những tiêu chí trên. Nhiều trong số các dự án phát triển hạ tầng du lịch quy mô lớn dẫn đến việc phải tái định cư người dân địa phương và ảnh hưởng đến môi trường. (Tuổi Trẻ 21/5) đầu trang(
22/5, thông tin từ Chi cục kiểm lâm tỉnh Quảng Nam cho biết, đơn vị này vừa phát hiện, tạm giữ 1 xe ô tô nghi vận chuyển gỗ lậu qua địa bàn.
Theo đó, ngày 20/5, khi thực hiện tuần tra, kiểm soát trên địa bàn thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Nam Giang, lực lượng kiểm lâm phát hiện 1 xe ô tô mang BKS xanh 43E - 0804 có nhiều biển hiện nghi vấn.
Kiểm tra trên xe, lực lượng chức năng phát hiện nhiều phách gỗ. Tài xế sau đó đã bỏ trốn khỏi hiện trường, buộc lòng lực lượng chức năng lập biên bản, tạm giữ tang vật.
Được biết, số gỗ trên không kèm giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Đây là loại gỗ thuộc nhóm VI.
Hiện, nhà chức trách vẫn chưa kết luận về chiếc xe mang BKS xanh là thật hay giả. Chi cục kiểm lâm tỉnh Quảng Nam đang phối hợp với các đơn vị chức năng khác để điều tra vụ việc. (An Ninh Tiền Tệ + Người Đưa Tin 22/5) đầu trang(
Hiện nay, nhiều khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn hồ chứa nước Đá Vàng và hồ Cây Thích (thuộc xã Phước Thành, huyện Tuy Phước, Bình Định) đang bị chặt phá để hầm than, trồng rừng kinh tế. Song ngành chức năng địa phương chưa có biện pháp xử lý hiệu quả.
Theo ghi nhận, tại khu vực giữa rừng phòng hộ hồ Đá Vàng và Cây Thích (xã Phước Thành, huyện Tuy Phước), tiếng cưa máy vẫn hoạt động, trong khi đó nhiều diện tích cây rừng ở đây đã bị cưa hạ. Tại đây, nhiều khúc củi, gỗ lớn nhỏ khác nhau được cắt thành từng khúc nằm ngổn ngang, gốc, cành cây còn tứa nhựa tươi. Đi sâu vào khoảng 200m, chúng tôi phát hiện một lò hầm than có chiều sâu khoảng 1,2m; rộng và dài 2m. Hầm này đã được gom than đưa xuống núi tiêu thụ, xung quanh than thành phẩm còn vương vãi khắp nơi. Cách đó, khoảng 100m thì tiếp tục chứng kiến nhiều cây gỗ có đường kính 10-20cm bị cưa sát gốc.
Theo anh Nguyễn Văn Th., người dẫn đường, khu vực rừng bị chặt phá nhiều nhất có tục danh núi Đá Đen, hố Cây Xoài, nằm phía Tây lòng hồ Cây Thích và khu vực Tây Nam - nơi giáp ranh giữa rừng phòng hộ hồ Đá Vàng với hồ Cây Thích. Anh Th. cũng cho biết nạn chặt phá rừng đốt than diễn ra âm ỉ từ tháng 2/2017 đến nay. Mỗi ngày có cả chục người chủ yếu là dân ở các xã Canh Vinh (huyện Vân Canh), xã Phước Thành và xã Phước An (huyện Tuy Phước) vào rừng chặt gỗ hầm than để đem xuống núi bán.
Không chỉ việc chặt phá rừng hầm than mà các đối tượng xâm canh để trồng cây keo lai. Cụ thể, tại khu vực rừng phía Tây Nam rừng phòng hộ hồ Cây Thích hoặc phía Nam hồ Đá Vàng, nếu chỉ “cưỡi ngựa xem hoa” thì hẳn nhìn khu rừng còn nguyên sinh rập rạp, nhưng thực tế đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài. Đi sâu vào bên trong khu vực rừng này, chúng tôi ghi nhận được khoảng 10 vị trí rừng bị triệt hạ để trồng keo, mỗi nơi rộng chừng 1.000-2.000m2. Nhiều diện tích keo lai ở độ tuổi từ 1-3 năm.
Theo ông Th., hiện nay những người phá rừng phòng hộ ở đây không khai thác theo kiểu cuốn chiếu, quy mô lớn hàng chục héc ta như trước đây mà khai thác diện tích nhỏ. Lựa chọn, những khoảnh rừng tương đối bằng phẳng, các đối tượng phá rừng phá trắng 1.000 - 2.000m2, sau đó cứ cách quãng vài trăm mét chúng lại phá một khoảnh khác. “Sở dĩ các đối tượng phá rừng chọn phương án này là bởi sau khi dọn lấy gỗ lớn, đốt sạch thực bì, chúng trồng cây lâm nghiệp, xem như rẫy của cá nhân”- ông Th, giải thích.
Cứ như vậy, từ những khoảnh rừng trong rừng phòng hộ bị biến thành rẫy, rừng trồng kinh tế… chẳng mấy chốc khoảnh rừng đầu nguồn bị thu hẹp dần.
Ông Lê Văn Đồng, Chủ tịch UBND xã Phước Thành, thừa nhận: Nạn phá rừng đốt than, trồng rừng kinh tế ở địa phương là có, nhưng đã giảm. Đầu năm 2017 đến nay, xã phối hợp với lực lượng kiểm lâm phụ trách địa bàn tổ chức 4 đợt truy quét, đập phá một số lò than. Tuy nhiên, công việc này hiện gặp không ít khó khăn do đối tượng vi phạm hoạt động về khuya, vận chuyển tang vật bằng đường rừng và cử người theo dõi khi lực lượng chức năng tổ chức truy quét. Vì vậy, khi phát hiện có lực lượng kiểm lâm hoặc cán bộ quản lý, bảo vệ rừng thì nhanh chóng tẩu táng tang vật, rút sâu vào rừng ẩn nấp. Trong khi đó, lực lượng ở địa phương mỏng, địa bàn rừng phân bố rộng nên chưa thể bố trí lực lượng túc trực, tuần tra, kiểm soát 24/24.
“Để hạn chế nạn phá rừng đốt than, trồng rừng kinh tế, thời gian tới xã phối hợp với lực lượng kiểm lâm đẩy mạnh việc tuần tra, truy quét với tần suất 2 lần/tháng. Đồng thời, kết hợp với tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân sống ở khu vực gần rừng nâng cao ý thức, bảo vệ rừng. Đối với diện tích rừng bị chặt phá, trồng rừng kinh tế thời gian tới xã bố trí lực lượng nhổ bỏ tất cả” - ông Đồng cho hay.
Theo người dân địa phương, thực trạng phòng hộ đầu nguồn quanh khu vực lòng hồ Đá Vàng và hồ Cây Thích đang ngún dần trong các lò than hoặc đang bị xẻ thịt để trồng cây keo lai. Tình trạng này diễn ra không phải chỉ trong một vài ngày mà kéo dài vài tháng. Thế nhưng, các ngành chức năng và chính quyền địa phương vẫn chưa tìm ra giải pháp ngăn chặn hiệu quả.
Trao đổi về vấn đề trên, ông Nguyễn Thanh Hải, Hạt Phó Hạt kiểm lâm liên huyện Tuy Phước - Quy Nhơn, cho rằng: “Rất khó phát hiện các đối tượng phá rừng đốt than vì các đối tượng này hoạt động rất tinh vi. Họ cử người theo dõi, thấy động là điện thoại tẩu tán tang vật ngay. Vì vậy, đến nay chưa có đối tượng vi phạm nào được bắt tận tay, xử lý theo quy định của pháp luật, chủ yếu xử lý theo hướng vô chủ”.
Trong khi đó, liên tiếp trong 2 ngày 13 và 14/5, trong suốt thời gian thâm nhập thực tế ở nhiều trong khu rừng phòng hộ Đá Vàng và hồ Cây Thích, phóng viên không thấy bóng dáng lực lượng kiểm lâm hoặc cán bộ, nhân viên quản lý, bảo vệ rừng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát. Trong khi, các đối tượng phá rừng vẫn ngang nhiên sử dụng cưa máy để hạ cây rừng đưa vào các lò than. (Dân Trí 20/5) đầu trang(
22/5, đại diện Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên cho biết, đoàn thanh tra của Bộ NN & PTNT vẫn chưa thể công bố kết quả thanh vụ “phá hàng trăm hecta rừng có chức năng phòng hộ để nuôi bò” vì cần thời gian củng cố kết quả.
Như Dân trí đã thông tin về việc tỉnh Phú Yên cho phép chuyển mục đích sử dụng 377 ha rừng, trong đó có 273 ha rừng tự nhiên, còn lại rừng trồng tại hai tiểu khu 310, 311 (thuộc xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh) để giao cho Công ty CP Chăn nuôi Thảo Nguyên Phú Yên phá trắng, trồng cỏ nuôi bò, mà chưa hoàn thành đánh giá tác động môi trường và chưa có phương án trồng rừng thay thế.
Để làm rõ vấn đề này ngày 31/3, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã có văn bản yêu cầu UBND tỉnh Phú Yên kiểm tra, làm rõ phản ánh về việc phá rừng để triển khai dự án nuôi bò thịt chất lượng cao trên địa bàn tỉnh; nếu có sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, báo cáo kết quả với Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/4.
Tiếp đó, Chiều 5/4, tại Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên, ông Đoàn Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Kiểm lâm, đã công bố quyết định của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN & PTNT) về thanh tra việc thực hiện chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lâm nghiệp sang mục đích khác trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Thời gian thanh tra là 30 ngày kể từ ngày công bố quyết định thanh tra.
Dự kiến, từ ngày 20 đến 22/5, đoàn thanh tra sẽ hoàn thiện hồ sơ, kết thúc thanh tra và công bố kết luận thanh tra tại Sở NN & PTNT tỉnh Phú Yên.
Tuy nhiên đến nay, đại diện Sở NN&PTNT tỉnh Phú Yên cho biết vẫn chưa thể công bố vì đoàn thanh tra của Bộ NN & PTNT cần có thời gian củng cố hồ sơ kết quả thanh tra. Còn việc công bố khi nào thì chưa có thời gian cụ thể. (Dân Trí 22/5) đầu trang(
Những năm qua, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh được các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng.
Trồng rừng hằng năm đạt kế hoạch; tỷ lệ che phủ rừng được duy trì ở mức cao; quy hoạch phân ba loại rừng cơ bản phù hợp yêu cầu thực tiễn; giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp được chú trọng, bảo đảm chặt chẽ, đúng pháp luật; công tác bảo vệ rừng, phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng được tăng cường. Các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện khá đồng bộ; đời sống của người dân làm nghề rừng từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, tình trạng phá rừng, khai thác, buôn bán, vận chuyển lâm sản trái pháp luật diễn ra phức tạp; công tác quản lý nhà nước tại một số địa bàn có mặt hạn chế, còn để xảy ra vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Có tình trạng lấn chiếm, sử dụng đất lâm nghiệp trái mục đích. Việc sắp xếp đất rừng của các công ty lâm nghiệp còn chậm.
Từ thực trạng trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 14-CTr/TU ngày 20/4/2017 về thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nêu rõ quan điểm: Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Gắn chặt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Lực lượng Kiểm lâm giữ vai trò nòng cốt trong công tác tham mưu, tổ chức thực hiện; các ngành chức năng liên quan, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương và các nhiệm vụ được giao cho cơ quan, đơn vị mình.
Đồng thời Chương trình xác định mục tiêu: Quản lý nghiêm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng tự nhiên, bảo tồn nguồn gen động thực vật rừng, tạo nguồn sinh thủy, bảo vệ môi trường sinh thái gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường gắn với phát triển du lịch; khai thác, sử dụng hiệu quả đất lâm nghiệp, rừng trồng sản xuất, góp phần cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là người làm nghề rừng.
Hoàn thành kế hoạch trồng, chăm sóc rừng hằng năm; nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng; thực hiện có hiệu quả công tác phòng cháy, chữa cháy rừng; giữ vững tỷ lệ che phủ rừng trên 60%. Phấn đấu cơ bản hoàn thành giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp đối với những diện tích đủ điều kiện theo quy định của pháp luật cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng quản lý vào năm 2018. Phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; không để hình thành tụ điểm về phá rừng, khai thác rừng, buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép.
Chương trình đã đề ra 5 nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giao các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh tổ chức quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị 13 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời giữa lúc phong trào trồng rừng sản xuất phát triển mạnh mẽ; giá gỗ rừng trồng được nâng lên đáng kể do nhiều diện tích rừng được cấp chứng chỉ FSC và thị trường gỗ rừng trồng phục vụ cho công nghiệp chế biến gỗ đang rất rộng mở và ổn định; bên cạnh đó sắn không bán được cũng là một yếu tố thuận lợi cho rừng sản xuất lên ngôi.
Tình trạng phá rừng, khai thác, buôn bán, vận chuyển lâm sản trái pháp luật, tình trạng lấn chiếm, sử dụng đất lâm nghiệp trái mục đích cũng theo đó mà có thể sẽ diễn ra rất phức tạp. Thiết nghĩ các cấp, ngành, địa phương, đơn vị và nhân dân cần thực hiện tốt Chương trình hành động số 14 -CTr/TU ngày 20/4/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy để đạt được kết quả tốt nhất trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. (Báo Tuyên Quang 22/5) đầu trang(
Công tác quản lý, bảo vệ rừng (QLBVR) cần phải huy động cả hệ thống chính trị và toàn dân. Tuy nhiên, để phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm về QLBVR thì vai trò quan trọng bậc nhất là sự phối hợp giữa lực lượng Kiểm lâm và Công an.
Mục tiêu của quy chế phối hợp trước hết là tạo bước chuyển biến mới trong phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý vi phạm, hạn chế thấp nhất nạn chống người thi hành công vụ, các hành vi phá rừng, lấn chiếm rừng, vận chuyển, kinh doanh trái phép lâm sản, các loài động vật hoang dã; góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm an ninh vùng rừng núi. Theo đó, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, bền vững giữa 2 ngành Công an và NN&PTNT để phát huy tính tự nguyện, sáng tạo và chủ động trong thực hiện.
Muốn vậy, vấn đề đặt ra là cần chấp hành nghiêm túc sự chỉ huy thống nhất của người có thẩm quyền theo phương án, kế hoạch phối hợp giải quyết các vụ việc về QLBVR, phát triển rừng và quản lý lâm sản cụ thể được lãnh đạo hai ngành phê duyệt. Trên cơ sở này, có sự tổ chức phân công phối hợp chặt chẽ, đồng bộ liên ngành từ tỉnh đến huyện và cơ sở. Mặt khác, cần đảm bảo sự đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện nhiệm vụ được giao, giữ bí mật về lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ trong xử lý theo quy định của Nhà nước.
Về công tác phòng ngừa, hai nội dung quan trọng là công tác tuyên truyền đối với nội bộ ngành và trong toàn dân; sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhằm quản lý các đối tượng, đường dây chuyên hoạt động nghề rừng trái phép. Song song hoạt động nêu trên, hai bên cần phối hợp tổ chức tập huấn nghiệp vụ, từ lĩnh vực điều tra đến quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, công cụ hỗ trợ, võ thuật; kiến thức về pháp luật...Theo đó, hai lực lượng Kiểm lâm và Công an cùng tham gia kiểm tra, ngăn chặn xử lý các vi phạm như: kiểm tra các trọng điểm, tụ điểm khai thác, phá rừng, lấn chiếm rừng, săn bắt động vật rừng trái phép; kiểm tra vận chuyển lâm sản trên các tuyến đường...
Vừa qua, tại Đà Lạt, lãnh đạo ngành Kiểm lâm từ cấp chi cục đến các hạt, đội cùng lãnh đạo ngành Công an từ các phòng đến đại diện Công an huyện, thành phố đã cùng nhau thảo luận sôi nổi để đi đến nhiều nội dung phân định trách nhiệm của mỗi bên. Phía Sở NN&PTNT, lực lượng Kiểm lâm có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật BV&PTR trong lực lượng và quần chúng nhân dân. Đồng thời, kiểm tra phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về rừng; bố trí kiểm lâm địa bàn thực hiện nhiệm vụ hiệu quả; nắm chắc các đối tượng phá rừng, mua bán vận chuyển lâm sản và động vật hoang dã để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý.
Ngành kiểm lâm cũng có trách nhiệm tham mưu cho UBND các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp ở địa phương. Đồng thời, tổ chức quần chúng BVR và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng này; chỉ đạo, hướng dẫn các chủ rừng, các lực lượng liên quan QLBVR... Ngành Kiểm lâm cũng giữ vai trò chủ động đề xuất với chủ tịch UBND các cấp xây dựng phương án truy quét; chủ trì phối hợp với công an cùng cấp huy động lực lượng truy quét. Mặt khác, phối hợp chặt chẽ với công an cùng cấp điều tra xác minh những vụ vi phạm Luật BV&PTR...
Đối với Công an tỉnh, tùy vào chức năng nhiệm vụ của từng phòng nghiệp vụ để triển khai thực hiện nhiệm vụ phối hợp QLBVR. Ví dụ, Phòng PV28, phối hợp tuyên truyền, phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Phòng PC49, phối hợp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm tra truy quét, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm về các loài động vật hoang dã, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép ảnh hưởng đến rừng và đất lâm nghiệp. Còn PC46 và PC44 có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ án từ ngành Kiểm lâm để cùng triển khai điều tra lập hồ sơ. PC64 phối hợp tập huấn cho lực lượng kiểm lâm về quản lý sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ...
Đối với Công an huyện và thành phố, tiếp nhận hồ sơ phạm tội, phối hợp điều tra lập hồ sơ; phối hợp xử lý vi phạm hành chính, kiểm tra, truy quét... PC67 phối hợp với lực lượng kiểm lâm dừng kiểm tra các phương tiện lưu thông khi có biểu hiện vi phạm Luật BV&PTR; phối hợp điều tra lập hồ sơ xử lý...
Với những nội dung về trách nhiệm phối hợp cụ thể giữa các đơn vị trực thuộc Sở NN&PTNT và Công an tỉnh như trên, ngành Kiểm lâm và Công an đã thống nhất về những kế hoạch thực hiện. Bao gồm có 16 nhiệm vụ chính, được phân công cụ thể cho từng bộ phận, đơn vị chủ trì, phối hợp và thời gian triển khai. Thẳng thắn nhìn nhận trong thực tế thời gian qua, sự phối hợp giữa 2 ngành Kiểm lâm và Công an ở cấp tỉnh đạt hiệu quả hơn ở một số cấp huyện, vì vậy cần rút ra bài học kinh nghiệm, phân tích nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong quá trình phối hợp.
Qua đó, lãnh đạo của hai ngành: Sở NN&PTNT và Công an tỉnh kịp thời có những hình thức khen thưởng động viên việc làm tốt, phê bình những việc làm chưa tốt. Và để công tác phối hợp QLBVR giữa Kiểm lâm và Công an trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng thực sự mang tính bền vững, có tính lan tỏa tốt, cần có đánh giá, chỉ đạo cùng những hình thức khen thưởng xứng đáng của các cấp quản lý cao hơn. (Báo Lâm Đồng 19/5) đầu trang(
Để triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tỉnh Quảng Trị đã ban hành “Kế hoạch Hành động đa dạng sinh học tỉnh Quảng Trị đến năm 2015, định hướng đến năm 2020” nhằm bảo tồn, phục hồi và phát triển bền vững tính đa dạng sinh học trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đa dạng sinh học của tỉnh Quảng Trị, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Công tác bảo tồn đa dạng sinh học đã đạt được một số kết quả nhất định. Các hệ thống khu bảo tồn đã được thành lập tại những vùng giàu có nhất về đa dạng sinh học của tỉnh và đã góp phần đáng kể cho công tác bảo tồn loài, sinh cảnh và hệ sinh thái.
Hiện nay ở Quảng Trị có 3 Khu dự trữ thiên nhiên (Đakrông, Hướng Hóa, Cồn Cỏ); 2 Khu dự trữ cảnh quan (Đường Hồ Chí Minh và Rú Lịnh). Các khu bảo tồn này đã và đang phát huy được vai trò trong bảo tồn đa dạng loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái, góp phần giữ gìn được nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Đặc biệt, nhờ vào việc thành lập Khu bảo tồn biển đảo Cồn Cỏ mà nguồn lợi thủy sản được phát triển và môi trường biển được bảo vệ, việc thiết lập Khu bảo tồn biển đảo Cồn Cỏ còn mang ý nghĩa pháp lý to lớn trong việc đấu tranh và bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia, chủ quyền biển, đảo trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế nước ta. Ngoài ra, việc đầu tư xây dựng và nâng cấp khu du lịch sinh thái trằm Trà Lộc, các khu rừng cảnh quan,... cũng đã tạo nên thế mạnh trong khai thác du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học. Hiện tại các khu bảo tồn thiên nhiên đang hoạt động tích cực và hiệu quả.
Việc triển khai có hiệu quả Dự án Hành lang bảo tồn đa dạng sinh học tiểu vùng Mê Kông đã góp phần giảm thiểu tình trạng chia cắt về sinh cảnh và các hệ sinh thái, tạo thuận lợi cho di chuyển và di cư cũng như tương tác của các loài, đồng thời góp phần vào các hoạt động sinh kế của cộng đồng địa phương cũng như thích ứng với biến đổi khí hậu. Dự án Hành lang bảo tồn đa dạng sinh học tiểu vùng Mê Kông giai đoạn 2 tính đến cuối năm 2015 đã tổ chức nhiều đợt tập huấn, tham quan học tập kinh nghiệm nhằm tăng cường năng lực cấp tỉnh, huyện, xã về hành lang đa dạng sinh học, GIS, trồng rừng, cải thiện sinh kế, bảo tồn đa dạng sinh học…; tổ chức điều tra và lập phương án giao 740 ha rừng cộng đồng (trên tổng số 3.683 ha theo quy hoạch); trồng mới phục hồi rừng 410 ha.
Việc xây dựng các hệ thống rừng đặc dụng cũng đã giúp bảo vệ rừng tự nhiên còn lại của Quảng Trị, bảo tồn đa dạng sinh học và phòng hộ đầu nguồn, đồng thời tạo ra ngôi nhà nơi cư trú an toàn cho các loài hoang dã. Diện tích trồng rừng tập trung từ năm 2011 đến năm 2015 ước đạt 29.705 ha, vượt chỉ tiêu đề ra; tỷ lệ độ che phủ rừng tăng từ 46,7% năm 2010 lên 49,5% năm 2015. Thực hiện dự án điều tra đánh giá và đề xuất các biện pháp phòng trừ các loài sinh vật ngoại lai trên địa bàn tỉnh cũng đã góp phần ngăn chặn không cho chúng lây lan, phát triển trên diện rộng, kịp thời có hướng giải quyết tích cực.
Nhiều chiến dịch tuyên truyền lưu động trong cộng đồng dân cư, thôn, bản, trong trường học, tờ rơi, áp phích đến tận hộ gia đình, nhà hàng, cơ sở sản xuất, chế biến... ký cam kết không buôn bán động vật hoang dã đã có sức lan tỏa, nâng cao nhận thức trong quần chúng nhân dân, giảm tiêu thụ và săn bắt trái phép động vật hoang dã.
Cũng từ ý thức tự giác của người dân mà ông Nguyễn Văn Phí, ở thôn 5, xã Gio Hải, huyện Gio Linh trong lúc đi đánh bắt hải sản ven bờ phát hiện một con rùa biển nặng 52,3 kg mắc vào lưới và lập tức báo cho cơ quan chức năng tiếp nhận và tiến hành thả về biển. Những hành động trên của người dân cho thấy hiệu quả tích cực của công tác truyền thông và tiếp cận cộng đồng để làm thay đổi thái độ, hành vi của người dân, góp phần quan trọng bảo vệ các loài động vật hoang dã đang gặp nguy hiểm.
Việc thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, truy quét vào rừng, các tụ điểm buôn bán trái phép động vật hoang dã, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ vi phạm… đã ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vận chuyển, buôn bán động vật hoang dã trên địa bàn; công tác kiểm soát tình trạng buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Giai đoạn từ năm 2010-2015, toàn tỉnh đã phát hiện, bắt giữ và xử lý hơn 1.500 cá thể động vật rừng với trọng lượng là gần 50.000 kg, trong đó động vật quý hiếm là hơn 13.000 cá thể. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành, địa phương cũng đã góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, ngăn chặn thành công nạn buôn bán động vật ngày càng gia tăng hiện nay.
Trong thời gian tới, để giảm thiểu sự suy thoái của đa dạng sinh học và hướng đến việc thiết lập một mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng cũng như bảo tồn đa dạng sinh học, các sở, ban, ngành, tổ chức đoàn thể và địa phương tỉnh Quảng Trị cần tiếp tục triển khai các hoạt động như tích cực đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên và mỗi người dân về thực trạng của động vật hoang dã, ý nghĩa của việc bảo vệ động vật hoang dã đối với sự sinh tồn và phát triển của con người; về tác động tiêu cực của việc buôn bán bất hợp pháp động vật hoang dã đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
Khuyến khích động viên mọi người tham gia phát hiện, ngăn chặn việc khai thác, săn bắt, buôn bán, tiêu thụ bất hợp pháp động vật hoang dã. Phân khu, phân vùng và xây dựng biện pháp, chế độ quản lý bảo vệ các loài đã và đang bị buôn bán, tiêu thụ bất hợp pháp. Xây dựng quy hoạch bảo tồn, đầu tư, phát triển các loài động vật hoang dã phân bố trên địa bàn tỉnh.
Gắn quy hoạch bảo tồn phát triển rừng đặc dụng với quy hoạch bảo vệ, tái tạo, phát triển các loài động vật, thực vật nguy cấp, quý, hiếm, loài thông thường có giá trị có nguồn gốc phân bố trên địa bàn. Xây dựng các dự án về bảo vệ, phát triển các loài đặc hữu, các loài thông thường có giá trị. Tăng cường nghiên cứu về đa dạng sinh học nói riêng và vấn đề môi trường nói chung, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi liên quan đến chặt phá cũng như đánh bắt động vật quý hiếm, làm tốt công tác giao đất, giao rừng cho hộ gia đình cũng như các Ban quản lý rừng.
Xây dựng những chính sách thiết thực, giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội địa phương, gắn lợi ích của người dân khi tham gia công tác bảo tồn. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân cam kết không buôn bán, tiêu thụ, sử dụng động vật nguy cấp, quý hiếm; đồng thời thông báo hành vi vi phạm tới các cơ quan chức năng để kịp thời xử lý. Thiết lập cơ sở dữ liệu, cơ chế chia sẻ thông tin về bảo vệ động vật hoang dã trên địa bàn tỉnh; phối hợp thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trong quản lý, bảo vệ động vật hoang dã.
Tăng cường tuần tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về mua bán, vận chuyển, gây nuôi, chế biến động vật hoang dã tại các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn, trong việc xuất, nhập khẩu động vật hoang dã và các sản phẩm từ chúng tại các cửa khẩu quốc tế, các lối mở trên địa bàn.Tổ chức theo dõi, điều tra, xác minh làm rõ đường dây khai thác, nuôi nhốt, mua bán, vận chuyển trái phép các loài động vật hoang dã.
Nắm bắt kịp thời tình hình các đối tượng thợ săn, khai thác rừng để tìm cách quản lý, giáo dục, thuyết phục, đồng thời tìm các chương trình hỗ trợ sinh kế cho người dân và các chương trình xóa đói giảm nghèo để giúp họ cải thiện đời sống. Tăng cường phối hợp liên ngành trong việc thực thi pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã; tổ chức thực hiện tốt công tác cứu hộ cá thể động vật hoang dã, thả về môi trường tự nhiên theo đúng quy định pháp luật. Quản lý, hướng dẫn các cơ sở gây nuôi sinh trưởng, sinh sản động vật hoang dã về quy trình kỹ thuật nuôi và thả lại nơi sinh sống tự nhiên đối với động vật hoang dã. Phát huy sức mạnh của các cơ quan báo chí để làm tốt công tác tư tưởng, biến nhận thức thành hành động trong công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng và thực hiện tốt các chương trình, đề tài, dự án về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững… Thực hiện lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ động vật hoang dã trong các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển của tỉnh, ngành, địa phương. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác bảo tồn. Tiếp tục tăng cường kiểm soát hoạt động buôn bán liên quốc gia các loài động vật hoang dã. Tích cực vận động, tranh thủ các nguồn vốn viện trợ, các chương trình, dự án nhằm phát huy năng lực các cấp, các ngành trong công tác bảo tồn, kiểm soát. (Báo Quảng Trị 22/5) đầu trang(
Những diễn biến trong phần tranh luận tại phiên tòa xét xử phúc thẩm bị cáo Hà Thừa Bình (SN 1966, trú thôn Tân Dừa, xã Hương Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh) khiến nhiều người phải đặt câu hỏi: có hay không những “lỗ hổng” trong quá trình tố tụng cấp sơ thẩm?
Theo cáo trạng, khoảng 6h ngày 8/7/2015, Hà Thừa Bình (SN 1966, trú thôn Tân Dừa, xã Hương Trạch, Hương Khê) thuê một số người mang theo rựa mồng tơi đi vào khoảnh 2, tiểu khu 245 (do BQL Rừng phòng hộ Ngàn Sâu quản lý) để sẻ cây, đốt rừng làm rẫy; đến 9h ngày 9/7/2015, tổ tuần tra Trạm Rào Rồng, thuộc BQL Rừng phòng hộ sông Ngàn Sâu phát hiện và bắt giữ. Tổng diện tích rừng bị sẻ phát, chặt hạ, đốt là 11.660m2.
Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản, giá trị rừng bị chặt phá là 142.950.000 đồng, giá trị về môi trường là 571.800.000 đồng.
Trên cơ sở xem xét tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ngày 17/1/2017, TAND huyện Hương Khê tuyên phạt Hà Thừa Bình 5 năm tù giam. Các đối tượng còn lại được Bình thuê với mục đích sẻ phát lấy tiền công, không biết đó là rừng phòng hộ mà nghĩ rằng rừng được giao cho Bình quản lý, sử dụng nên không xem xét xử lý vai trò đồng phạm trong vụ án.
Tuy nhiên, bị cáo Hà Thừa Bình đã kháng cáo, đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm bởi còn nhiều nội dung chưa được làm rõ, như: trách nhiệm của ban quản lý rừng, căn cứ để xác định ranh giới rừng phòng hộ; số lượng cây, diện tích cây rừng bị các đối tượng chặt phá còn nhiều điểm mâu thuẫn… Ngoài ra, Tòa cấp sơ thẩm không xem xét thỏa thuận tự nguyện của các đương sự về bồi thường dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra vào chiều 22/5/2017, trả lời về căn cứ xác định rừng phòng hộ, Trưởng BQL Rừng phòng hộ Ngàn Sâu Nguyễn Kim Hùng cho rằng: Việc xác định rừng phòng hộ trong 3 loại rừng (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất) dựa vào các Quyết định 3209/QĐ-UBND ngày 29/12/2006, Quyết định 3360/QĐ-UBND ngày 25/11/2008 và Quyết định 1511/QĐ-UBND ngày 28/5/2012 của UBND tỉnh.
Tuy nhiên, trên thực tế, nếu chỉ chiếu theo các quyết định này để phân định ranh giới các loại rừng là chưa đủ. Bởi lẽ, tại Nghị định 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ cũng đã quy định, khu rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất phải được xác định ranh giới rõ ràng theo bản đồ trên thực địa và lập hồ sơ quản lý rừng; trên thực địa phải thể hiện bằng hệ thống mốc. Ngoài ra, theo Quyết định 3031/1997/QĐ-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp, ranh giới và mốc giới các loại rừng được quy định là cơ sở xác định lâm phận các loại rừng, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để ngăn ngừa, xử lý các trường hợp lấn chiếm, tranh chấp quyền sử dụng đất, sử dụng rừng.
Ông Hùng khẳng định, đơn vị đã tiến hành cắm mốc xác định ranh giới các loại rừng nói trên; đồng thời, thực hiện đầy đủ công tác tuyên truyền pháp luật về bảo vệ rừng, cắt cử người giám sát, theo dõi các hoạt động hủy hoại rừng.
Song theo những người dân địa phương có mặt tại phiên tòa, mặc dù có tuyên truyền nhưng cơ quan chức năng lại chưa bao giờ công khai quy hoạch 3 loại rừng cho dân biết.
Ngoài ra, bản thân ông Hùng, đại diện cho đơn vị quản lý rừng cũng thừa nhận không nhớ việc cắm mốc xác định ranh giới vào thời điểm nào và tại vị trí nào.
Trên thực tế, diện tích rừng trên bản đồ và thực địa có thể có sự sai lệch. Theo phụ lục kèm theo Quyết định 3031, việc xác định ranh giới vị trí mốc ngoài thực địa phải đối chiếu giữa bản đồ và thực địa để khẳng định tính xác thực của đường ranh giới và vị trí mốc, bảng. Bản đồ đúng nhưng ranh giới thực địa sai thì phải chỉnh lý lại ranh giới thực địa cho phù hợp với bản đồ. Song tại hồ sơ vụ án lại không có biên bản xác định vị trí mốc ngoài thực địa để làm sáng tỏ việc có sai lệch hay không.
Trong khi đó, tại bản án sơ thẩm ngày 17/1/2017 của TAND huyện Hương Khê lại dựa vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH800994 ngày 5/6/2008 để làm căn cứ xác minh (?!).
Như vậy, chưa có đủ căn cứ để xác định diện tích rừng bị Hà Thừa Bình thuê người sẻ phát là rừng phòng hộ. Theo đó, việc truy cứu bị cáo theo điểm b, khoản 3, điều 189 về tội “hủy hoại rừng” là chưa có cơ sở.
Căn cứ vào lời khai của các bên liên quan tại phiên tòa cho thấy, việc Hà Thừa Bình thuê người sẻ phát rừng được phát hiện vào ngày 9/7/2015, nhưng đến ngày 4/8/2015, cơ quan chức năng mới tiến hành xác minh và kiểm tra hiện trường. Như vậy, suốt thời gian khá dài (25 ngày) trong điều kiện hiện trường không được bảo vệ, không thể khẳng định chính xác sẽ không có ai sẻ phát thêm.
Về thành phần tham gia kiểm tra hiện trường, không có mặt những người sẻ phát chính được bị cáo Bình thuê gồm các ông Đinh Văn Đề, Nguyễn Hải Vân, Nguyễn Văn Cường, bà Trần Thị Thanh, Đinh Thị Viện để xác định chính xác số lượng cây bị chặt, mà chỉ có cháu Nguyễn Văn Anh (thời điểm đó mới 15 tuổi) và Hà Thừa Bình (không tham gia sẻ phát). Đồng thời, bị cáo Bình cùng cháu Anh dù có mặt nhưng lại không được xác nhận số lượng cây theo phiếu đo đếm loài cây gỗ rừng tự nhiên.
“Sau khi kiểm tra hiện trường, không lập biên bản ký ngay mà 4-5 ngày sau mới lên UBND xã Hương Trạch (Hương Khê) để ký. Hơn nữa, thành phần tham gia kiểm tra hiện trường chỉ có 6-7 người, nhưng trong biên bản lại có tới 16 người?”, bị cáo Bình cho biết.
“Tôi không tham gia kiểm tra trực tiếp tại hiện trường mà cử cấp dưới tới và tôi ký vào biên bản dựa trên những gì người này trình bày”, Phó Chủ tịch UBND xã Hương Trạch Cao Quốc Hội thừa nhận. Trong khi đó, biên bản lại thể hiện rõ ông Hội có mặt tại thời điểm khám nghiệm hiện trường?
Điều này khiến người tham dự phiên tòa nghi ngờ mức độ chính xác của số lượng cây, diện tích sẻ phát được xác định trong bản án sơ thẩm (600 cây trên diện tích hơn 11.000m2).
Người được bị cáo thuê sẻ phát chính là ông Đinh Văn Đề quả quyết, chỉ sẻ từ 7-8ha rừng; và chỉ sẻ những cây gỗ tạp có đường kính từ 15cm trở lại chứ không phải các loại cây có đường kính từ 35-40cm như: cà ổi, dẻ, hoàng linh theo phiếu đo của cơ quan chức năng.
Bên cạnh đó, người dân địa phương cho rằng, việc dùng rựa mồng để chặt những loại cây lớn có đường kính từ 35-40cm trong thời gian 1 ngày (từ chiều ngày 8 tới sáng ngày 9/7/2015) với khối lượng như Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng Rào Rồng Phan Việt Hùng trình bày trước tòa là hoàn toàn phi lý.
“Bị cáo thừa nhận vi phạm, nhưng bị cáo cho rằng sai phạm đó không đúng như cơ quan tố tụng quy kết. Bị cáo đề nghị HĐXX làm sáng tỏ các sự thật khách quan của vụ án”, Hà Thừa Bình trình bày tại phiên tòa. (Báo Hà Tĩnh 23/5) đầu trang(
Quảng Ninh là tỉnh có tính đa dạng sinh học cao tập trung ở Vườn Quốc gia - Vườn di sản ASEAN Bái Tử Long, Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của môi trường đang khiến nhiều loại động, thực vật bị xâm hại nghiêm trọng, điều này đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải bảo tồn và phát huy những giá trị đa dạng sinh học (ĐDSH) của tỉnh.
Theo kết quả điều tra của Kế hoạch hành động ĐDSH tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 thì Quảng Ninh có tính ĐDSH cao với 4.350 loài, 2.236 chi, 721 họ thuộc 19 ngành; 3 giới động vật, nấm và thực vật đa dạng loài, đa dạng hệ sinh thái, đa dạng gen. Bên cạnh đó, có 5 dạng cảnh quan chính quyết định sự đa dạng của các hệ sinh thái trong tỉnh, như cảnh quan núi, đồi, bãi triều, đồng bằng hẹp ven biển, bãi bùn, biển, hải đảo... Toàn tỉnh có 4 khu vực chính có rạn san hô là Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, đảo Cô Tô và đảo Trần. Ngoài ra, Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo, mỗi đảo lại có sự đa dạng độc đáo riêng tạo ra nhiều biến dị di truyền trong cùng một loài.
Quảng Ninh cũng là một trong số ít địa phương trên cả nước có nhiều khu vực được bảo tồn nguồn tài nguyên sinh học, bảo vệ môi trường theo nhiều hình thức khu bảo tồn khác nhau, gồm: Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Bái Tử Long, Khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, Khu bảo vệ cảnh quan Rừng Quốc gia Yên Tử, Khu rừng nghiên cứu thực nghiệm tại TP Hạ Long.
Ngoài ra, theo Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020, trong giai đoạn 2011-2015, tỉnh Quảng Ninh có thêm 2 khu vực được quy hoạch để bảo tồn ĐDSH là: Khu bảo tồn biển Cô Tô - đảo Trần và Khu vực vùng cửa sông Tiên Yên. Riêng về đa dạng hệ sinh thái của Vịnh Hạ Long vô cùng phong phú với hai hệ sinh thái lớn là rừng kín và biển ven bờ. Đối với hệ sinh thái rừng kín, các nhà khoa học đã xác định được tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở Vịnh Hạ Long là hơn 1.000 loài. Đối với hệ sinh thái biển ven bờ, sự phong phú về ĐDSH càng thể hiện rõ hơn với các dạng sinh thái tiêu biểu, như vùng triều và vùng ngập mặn; đáy cứng, rạn san hô...
Có thể thấy, ĐDSH của Quảng Ninh vô cùng phong phú. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân mở rộng đất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ, hải sản, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, khai thác gỗ, săn bắt và buôn bán các loài động, thực vật hoang dã, ô nhiễm môi trường... dẫn đến ĐDSH ngày càng bị suy thoái. Nhiều loài, như: Hổ, gấu ngựa... đã không còn được phát hiện tại Quảng Ninh và nhiều rạn san hô đã bị suy giảm nghiêm trọng, khó có thể hồi phục.
Điều đáng mừng là hiện nhiều luật liên quan bảo vệ ĐDSH được ra đời, như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thuỷ sản, Luật Tài nguyên nước và quan trọng nhất là Luật ĐDSH. Đây là khung luật đầu tiên của Việt Nam quy định về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo tồn, phát triển bền vững ĐDSH làm cơ sở cho việc ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển ĐDSH của các địa phương và định hướng phát triển những khu bảo tồn ở địa phương. Khung pháp lý đã có nhưng việc thực thi pháp luật về ĐDSH lại khó khăn do sự chồng chéo giữa các văn bản luật. Bảo tồn ĐDSH đang gặp khó do có sự chia tách trong hướng dẫn thực thi giữa Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thuỷ sản và Luật ĐDSH khi quy định cùng vấn đề về bảo tồn ĐDSH; thiếu sự phối hợp và đồng thuận trong phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về ĐDSH.
Ngoài ra, tài chính cho bảo tồn ĐDSH còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà nước về ĐDSH. Hiện tại, kinh phí cho bảo tồn ĐDSH được lấy chủ yếu từ nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường (khoảng 1% NSNN). Trên thực tế, nguồn lực tài chính đầu tư cho ĐDSH không đủ để triển khai các hoạt động bảo tồn ĐDSH, như: Điều tra cơ bản, xây dựng cơ sở dữ liệu; quan trắc, thống kê ĐDSH; phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên, bảo tồn loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; xây dựng, nâng cấp, cải tạo khu bảo tồn... Tài chính hạn hẹp, khiến hoạt động của các khu bảo tồn chưa phát huy hiệu quả.
Sự suy giảm nhanh của nhiều loài động, thực vật khiến cho công tác bảo tồn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Do vậy, các ngành chức năng cần có những động thái quyết liệt, biện pháp hữu hiệu để giải quyết những khó khăn trên. (Báo Quảng Ninh 20/5) đầu trang(
Việc gây nuôi thương mại động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm có thể mang lại lợi nhuận cho một số người, song nó lại đe dọa nghiêm trọng đến đa dạng sinh học, cần phải nghiêm túc bảo vệ các loài động vật hoang dã, đặc biệt là những loài có nguy cơ bị mất đi vĩnh viễn.
Trên thế giới vẫn có một số ít các trường hợp động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được gây nuôi thành công và được buôn bán, trao đổi ở mức ổn định, đem lại lợi ích cho những người triển khai, đồng thời động vật hoang dã cũng được bảo tồn thành công ngoài tự nhiên. Có thể lấy ví dụ trường hợp các cơ sở gây nuôi cá sấu ở Mỹ hoạt động rất thành công và số lượng cá sấu hoang dã cũng tăng lên. Việc gây nuôi cá sấu nước mặn ở Australia cũng đã được thực hiện ổn định và thành công mà số lượng cá thể ngoài tự nhiên vẫn tăng. Nhưng đó chỉ là những trường hợp rất hiếm hoi.
Ở Việt Nam, trường hợp tái thả thành công khi một số lượng ít các cá thể cá sấu Xiêm đã được chuyển từ các cơ sở gây nuôi về tái thả tại Vườn quốc gia Cát Tiên. Một quần thể nhỏ cá sấu Xiêm hiện vẫn đang sinh sản ở hồ Cát Tiên cho đến nay. Đó là điểm sáng duy nhất giữa rất nhiều tiêu cực của ngành công nghiệp gây nuôi thương mại động vật hoang dã.


Từ một vài điển hình, các nước Đông Dương cũng cho phép gây nuôi cá sấu như một biện pháp bảo tồn. Theo Tổ chức Động vật hoang dã quốc tế, sự hình thành ngành công nghiệp gây nuôi cá sấu vào những năm 50 của thế kỷ 20 đã kích thích nhu cầu lớn phải khai thác cá sấu trong tự nhiên để đưa vào các cơ sở gây nuôi. Tính đến năm 2016 có hơn 2.500 cơ sở gây nuôi động vật hoang dã ở bán đảo Đông Dương, đa phần các cá thể trong đó có nguồn gốc từ tự nhiên. Hơn 1100 cơ sở gây nuôi động vật hoang dã ở Việt Nam với hàng trăm ngàn cá thể cá sấu, trong khi có dưới 20 cá thể cá sấu Xiêm trưởng thành còn sót lại trong tự nhiên.
Rất nhiều khu vực sông, hồ - nơi cá sấu sinh sống đã bị các tay săn trộm xóa sổ nhằm khai thác cá sấu cung cấp cho các trang trại. Vẫn còn nhiều người thích tiêu thụ động vật hoang dã tự nhiên hơn bởi họ cho rằng động vật tự nhiên tốt hơn động vật trong trang trại. Sự phát triển của các cơ sở gây nuôi đã dẫn đến sự diệt vong của loài cá sấu Xiêm trong tự nhiên, đồng thời gây suy giảm các quần thể của chúng trong tự nhiên ở một số quốc gia lân cận như Campuchia, Lào.
Cho dù những cơ sở này có thành công trong việc nuôi cá sấu, chi phí săn bắt cá sấu ngoài tự nhiên vẫn rẻ hơn so với gây nuôi, tạo áp lực lớn đối với quần thể cá sấu trong tự nhiên. Ngày càng nhiều cá thể cá sấu bị săn bắt từ tự nhiên để đưa về các cơ sở gây nuôi. Các cơ sở này đã tạo ra nhiều lỗ hổng, khiến việc buôn bán trái phép cá sấu trở nên dễ dàng hơn.
Việc cho phép tự do thương mại cá sấu trên thị trường sẽ rất khó để các cán bộ thực thi pháp luật có thể phân biệt giữa cá sấu được gây nuôi hợp pháp và cá sấu bị săn bắt trái phép ngoài tự nhiên. Cơ quan quản lý còn rất lúng túng trong giải quyết các thủ tục cấp phép gây nuôi bảo tồn và gây nuôi thương mại. Nếu không có các biện pháp quản lý phù hợp, các quy chế bảo vệ chặt chẽ, ngành công nghiệp gây nuôi động vật hoang dã sẽ tiếp tục gây ra những áp lực đối với quần thể tự nhiên, và sẽ rất khó để bảo vệ chúng.
Một hệ quả nữa là những ảo tưởng rằng công tác bảo tồn vẫn đang diễn ra trong khi thực tế số lượng loài này đang ngày càng sụt giảm nhanh chóng. Trong nhiều năm trời, nhiều nhà bảo tồn đã cho rằng gây nuôi thương mại sẽ giúp cá sấu tránh khỏi việc bị săn bắt ngoài tự nhiên, thậm chí một số quỹ bảo tồn còn tài trợ cho các cơ sở gây nuôi động vật hoang dã. Điều này là không đúng bởi số tiền đó có thể dùng vào việc bảo vệ cá sấu trong tự nhiên ngay từ đầu.
Trong một số trường hợp, động vật hoang dã như cá sấu, hổ thoát khỏi cơ sở nuôi gây nguy hiểm và đe dọa tới mạng sống của con người, vì khi cấp giấy phép không chú ý tới tiêu chuẩn chuồng trại và các điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn cho xã hội. Các loài động vật được nuôi nhốt có nguy cơ giảm khả năng đề kháng đối với một số bệnh nguy hại, các loài ký sinh trùng và cũng là mầm mống cho một số bệnh khác.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Xuân Cảnh, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật cho rằng, trong nuôi nhốt hiện nay chưa thấy rõ mục tiêu bảo tồn. Việc gây nuôi thương mại một số loài thông thường có thể chấp nhận được trên cơ sở cân nhắc các đặc tính sinh thái, khả năng sinh sản,... Nhưng việc nuôi thương mại các loài nguy cấp, quý, hiếm cần được nghiêm cấm, đặc biệt với những loài có khả năng đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao.
Theo bà Jenny Daltry, Tổ chức Động thực vật hoang dã quốc tế, thời điểm hiện tại các nước Đông Dương chưa sẵn sàng cho việc gây nuôi động vật hoang dã. Tuy vậy, các nước này cần phải đầu tư hơn nữa vào công tác bảo vệ, thực thi pháp luật, phòng chống tham nhũng để có thể đi tới gây nuôi thương mại một cách hiệu quả.
Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên kiến nghị công tác bảo tồn động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm không thể diễn ra song hành với hoạt động gây nuôi thương mại những loài này. Các khu bảo tồn phải có nguồn kinh phí ổn định để chăm sóc động vật, bảo vệ động vật hoang dã trong chính môi trường sống tự nhiên của chúng, cần có kiến thức để đảm bảo tránh giao phối cận huyết, lai tạp nguồn gen khiến các cá thể được gây nuôi không có giá trị bảo tồn. Hơn nữa, hầu hết các cá thể động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được gây nuôi đã bị mất đi bản năng sinh tồn và kĩ năng cần thiết giúp chúng sống sót trong tự nhiên nếu được tái thả.
Bất kỳ chính sách hoặc quy định pháp luật dẫn tới tổn thất đa dạng sinh học cần được cân nhắc thật kỹ trước khi được ban hành. Việc gây nuôi các loài động vật hoang dã, kể cả các loài thông thường chỉ được phép tiến hành khi được các cơ quan khoa học tại Việt Nam khẳng định là phù hợp với hoạt động gây nuôi. Trước khi cấp phép gây nuôi thương mại và buôn bán một loài thông thường cần phải được cơ quan khoa học nghiên cứu, đánh giá và đảm bảo hoạt động gây nuôi và buôn bán sẽ không ảnh hưởng tới bảo tồn.
Cơ quan chức năng cần xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về thông tin các cơ sở đăng ký gây nuôi để lực lượng kiểm lâm có thể lưu trữ, cập nhật và kiểm tra thông tin của các cơ sở gây nuôi như : số lượng động vật hoang dã, quá trình chuyển dịch động vật hoang dã, sinh sản, buôn bán cũng như bất cứ sự thay đổi nào khác tại cơ sở gây nuôi,...(Báo Ảnh Dân Tộc & Miền Núi 20/5) đầu trang(
Dòng người dựng lều trong rừng, xới tung cả cánh rừng nguyên sinh ở thôn Liên Sơn, xã Xuân Lẹ (huyện Thường Xuân, Thanh Hóa) để khai thác đá xanh ngày đêm. Lực lượng kiểm lâm không hay biết?
Khắp cánh rừng là những hố sâu hoắm được các phu đá đục khoét theo nhiều hình thù khác nhau. Có những hố đào theo phương thẳng đứng, hố đào hàm ếch… tất cả đều được thực hiện thủ công, thô sơ.
Một phu đào đá ở đây cho biết, nhóm người của các anh ở tận xã Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, đã làm nghề này được 2 năm. Họ dựng lán ở trong rừng, 1 tháng mới về nhà lấy gạo, lương thực...
“Công trường” khai thác đá xanh đang diễn ra, cây cối nằm ngổn ngang.
Cách đó không xa, tại khu vực suối làng Vèn thuộc thôn Liên Sơn, rừng cũng bị khai thác trái phép, nhiều cây gỗ to đã bị đốn hạ.
Dọc hai bên bờ suối, nhiều thân gỗ tròn, gỗ hộp được các lâm tặc “ngụy trang” bằng cách phủ cỏ cây lên trên hòng che mắt lực lượng kiểm lâm.
Người dân ở đây cho biết, đối tượng lâm tặc trước đây chặt phá ồ ạt ở một điểm thì nay chia thành nhiều điểm lẻ để tránh lực lượng kiểm lâm, khi bị phát hiện thì dễ dàng tháo chạy.
Trong bán kính khoảng 2km, nhiều thân cây gỗ lớn, nhỏ đủ mọi kích cỡ bị đốn phăng không thương tiếc.
Ông Cầm Bá Xuân, Chủ tịch UBND huyện Thường Xuân cho biết, thời gian gần đây vẫn còn tình trạng lén lút khai thác khoáng sản trái phép với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Cách thức khai thác ngày càng hiện đại để tránh sự truy quét, ngăn chặn của lực lượng chức năng.
Sau khi nhận được thông tin, UBND huyện Thường Xuân đã thành lập đoàn công tác kiểm tra xử lý hoạt động khai thác đá xanh tại địa bàn.
Đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ khu vực đang khai thác và các khu vực có nguy cơ xảy ra khai thác nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời mọi hoạt động khai thác và vận chuyển khoáng sản trái phép.
Bên cạnh đó, huyện yêu cầu lãnh đạo địa phương nghiêm túc kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của cá nhân đã buông lỏng quản lý để xảy ra tình trạng khai thác đá xanh trái phép.
Đồng thời yêu cầu đoàn công tác cũng như 2 xã Xuân Chinh, Xuân Lẹ rà soát, kiểm tra, tổng hợp số hầm, hố đào khai thác vàng, đá xanh. Yêu cầu công an huyện nắm bắt các đối tượng ra vào khu vực các xã có mỏ vàng, đá quý, tăng cường kiểm tra, xác minh, mai phục, bắt giữ các đối tượng...
Ông Xuân cũng cho hay, đã đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa quan tâm, chỉ đạo và hỗ trợ huyện trong việc quản lý và xử lý triệt để tình trạng khai thác khoáng sản trái phép.
Trong đó, đề nghị tỉnh giao Sở TN&MT phối hợp với các sở, ban, ngành kiểm tra thực tế và tham mưu UBND tỉnh lập hồ sơ trình Bộ TN&MT xin cấp phép khảo sát, đánh giá trữ lượng vàng sa khoáng, đá quý ở 2 xã Xuân Chinh, Xuân Lẹ....
Đồng thời, tỉnh cần chỉ đạo Công an tỉnh tăng cường công tác đấu tranh, trấn áp tội phạm đối với các đối tượng trong và ngoài tỉnh có hành vi bảo kê hoặc tiếp tay cho việc khai thác, vận chuyển vàng, đá xanh.
Về vấn đề khai thác rừng ở thôn Liên Sơn, Hạt Kiểm lâm Thường Xuân đã phối hợp với Đội Kiểm lâm cơ động - Phòng cháy, chữa cháy rừng số 2 cùng cấp ủy, chính quyền xã Xuân Lẹ và Ban quản lý thôn Liên Sơn kiểm tra tại 3 tuyến.
Kết quả, phát hiện 13 cây bị khai thác, trữ lượng là 9,505m3. Đối tượng khai thác và vận chuyển là người dân ở xã Xuân Lẹ. (Vietnamnet 23/5) đầu trang(
Tại Hải Phòng, các cán bộ thuộc Vườn quốc gia Cát Bà đang ngày đêm nỗ lực để bảo tồn loài voọc khỏi sự tác động của con người và các hoạt động kinh tế, du lịch đang làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Nhân ngày Quốc tế đa dạng sinh học 22/5.
Trong một ngày đầu hạ, chúng tôi có dịp được theo chân các cán bộ kiểm lâm và chuyên gia của dự án Bảo tồn voọc Cát Bà. Trước mắt chúng tôi, hòa chung với màu xanh của biển, đảo Cát Bà hiện lên hoang sơ, huyền ảo như chưa từng có dấu tích của con người.
Đưa chúng tôi qua các hang núi đá vôi, anh Nguyễn Huy Cầm, phó Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Cát Dứa (thuộc Hạt kiểm lâm vườn quốc gia Cát Bà) cho biết, voọc Cát Bà là loài linh trưởng hiếm nhất châu Á, đồng thời không có ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới, chỉ còn tồn tại duy nhất ở quần đảo Cát Bà. Theo thống kê, số lượng voọc Cát Bà cũng chỉ còn gần 60 cá thể, được phân bố rải rác tại các dãy núi đá vôi chạy dọc đường biển thuộc Vườn quốc gia Cát Bà.
“Voọc Cát Bà có sinh cảnh sinh sống thường trên các dãy núi đá vôi, đời sống của chúng thường ăn các loài cây trên vách đá. Điều kiện sống của chúng thường ngủ vào ban đêm tại các vách đá, hang động sau khi ăn uống và sinh hoạt trong thung lũng. Chính vì vậy, các hang ngủ của chúng thường nằm ngoài phía biển, con người thường xuyên có thể nhìn thấy”.
Anh Cầm kể, trước đây voọc Cát Bà đã từng là một trong những loài có số lượng lớn nhất trên đảo. Thế nhưng với tập tính thường sinh sống tại các hang đá ven mặt biển, cộng với nạn săn bắt của người dân và những đối tượng xấu khiến số lượng voọc bị suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay, Hạt kiểm lâm Cát Bà đã lập thành các tổ đội kết hợp với người dân sống tại vùng đệm của vườn thường xuyên đi kiểm tra, phá bẫy, theo sát và nắm bắt tính cách của từng con voọc để từ đó có những phương pháp bảo vệ hợp lý.
Anh Cầm cho biết thêm: “Voọc gần như sinh sản quanh năm và mỗi lần sinh sản chỉ đẻ 1 con. Loài voọc này cũng có những tập tính là ngồi rất yên tĩnh, có thể không di chuyển trong thời gian 1 tiếng rưỡi đến 3 tiếng. Thế nên chúng tôi phải ngồi thi gan với con voọc để chờ nó về hang mới có thể kiểm tra lại số lượng đàn và cấu trúc đàn”.
Đã có nhiều năm công tác tại vườn quốc gia Cát Bà, ông Neahga Leonarg, Giám đốc dự án Bảo tồn voọc Cát Bà cho biết, qua các nghiên cứu loài voọc tại đảo Cát Bà có đặc điểm GEN gần giống với loài voọc đầu trắng ở miền nam Trung Quốc và được chia tách từ hàng triệu năm trước đây. Ngoài ra, loài voọc tại Cát Bà đã tự tiến hóa để thích nghi với môi trường sống trên các dãy núi đá vôi hiểm trở, cách xa với đất liền nên rất nhạy cảm với con người và có thể rời tổ đi nơi khác khi nghe được âm thanh lạ cách chúng hàng cây số. Vì vậy hiện dự án bảo tồn voọc đang gặp rất nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, ý thức bảo vệ của người dân chưa cao, cùng với đó là các hoạt động kinh tế, du lịch đang làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái.
Ông Neahga Leonarg chia sẻ: “Công việc bảo tồn trên đảo không chỉ bảo vệ riêng loài voọc Cát Bà mà là bảo tồn toàn bộ sinh cảnh sống của nó, trong sinh cảnh sống đó có rất nhiều sự đa dạng sinh học về rất nhiều những loài động vật khác. Mọi người cũng phải hiểu rằng khu vực đảo Cát Bà có vườn quốc gia là khu vực có sự đa dạng sinh học rất cao, có tầm quan trọng về mặt quốc tế và đã được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Được công nhận đồng nghĩa với việc công nhận một cách đặc biệt về mặt sinh thái học, môi trường và đa dạng sinh học. Vậy nên song song với việc làm công tác phát triển và làm du lịch cũng cần phải chú trọng và quan tâm đến công tác bảo tồn thiên nhiên”.
Ông Hoàng Văn Thập, Giám đốc Vườn quốc gia Cát Bà cho biết, trước tình trạng loài voọc tại đảo Cát Bà chỉ còn lại gần 60 cá thể, vườn quốc gia Cát Bà đang kết hợp với nhiều tổ chức thế giới tập trung vào 3 mục tiêu chính là ổn định quần thể voọc thông qua tuyên truyền để người dân không săn bắn, thiết lập khu bảo vệ nghiêm ngặt, bảo đảm sinh cảnh thích hợp cho quần thể voọc đang tồn tại phát triển và tăng khả năng sinh sản cho loài voọc.
Đặc biệt Dự án bảo tồn voọc Cát Bà được triển khai vào cuối năm 2000 được Vườn thú Munster và Hội động vật về loài và quần thể (CHLB Đức) tài trợ đã thực hiện thành công hai chương trình “Người gác voọc” và Câu lạc bộ bảo vệ rừng ở các xã trên đảo Cát Bà.
Nhờ có các chiến dịch hướng vào cộng đồng, nhận thức của người dân về voọc và bảo tồn voọc dần thay đổi. Từ nạn nhân của tình trạng săn bắn bừa bãi, đến nay loài voọc Cát Bà đã được bảo vệ, sinh sôi phát triển và trở thành biểu tượng của Khu dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà như chia sẻ của ông Hoàng Văn Thập giám đốc Vườn quốc gia Cát Bà: “Từ khi được TP Hải Phòng quy hoạch chi tiết khu bảo vệ nghiêm ngặt cho loài voọc thì công tác bảo vệ của vườn đã rất tốt, người dân và các hoạt động khác rất hạn chế và không được tác động đến khu vực này.
Quần đảo Cát Bà hiện có đa dạng sinh học rất cao, quan điểm của chúng tôi là có phát triển đến mức độ nào chăng nữa thì chúng ta vẫn phải giữ lấy di sản thiên nhiên và đặc biệt là các tác động từ du lịch và các hoạt động dân sinh, kinh tế, xã hội khác đều phải tôn trọng, giữ gìn giá trị và bảo tồn thiên nhiên trên quần đảo Cát Bà”.
Bảo tồn voọc Cát Bà không chỉ là công việc của tổ chức, cá nhân mà là trách nhiệm, lương tâm của mọi người nhằm bảo vệ và phát triển về đa dạng sinh học để quần đảo Cát Bà mãi là viên ngọc xanh của vùng Đông Bắc. (VOV 23/5) đầu trang(
Theo ông Đoàn Văn Tá, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện An Lão, 4 tháng đầu năm 2017, Hạt đã phát hiện thêm 10 vụ phá rừng trái phép tại các xã An Trung, An Nghĩa, An Hưng, An Tân, An Quang, gây thiệt hại hơn 5,1 ha rừng các loại. Dù UBND huyện An Lão chỉ đạo quyết liệt, đưa ra nhiều giải pháp để ngăn chặn tình trạng phá rừng và lấn chiếm đất lâm nghiệp, nhưng tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp vẫn tái diễn và diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân là do một số bộ phận nhân dân  đời sống khó khăn, hám lợi nên phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp để trồng cây keo nguyên liệu giấy; hoặc lén lút khai thác, mua bán gỗ và săn bắt động vật rừng trái phép. Mặt khác, các hộ nhận khoán quản lý, bảo vệ chưa làm hết trách nhiệm, để tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trên lâm phần và rừng nhận khoán. Một số kiểm lâm địa bàn và chính quyền địa phương thiếu kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng...(Báo Bình Định 21/5) đầu trang(
Cần chế tài mạnh xử lý hành vi vận chuyển động vật hoang dã
Thời gian gần đây, lực lượng chức năng đã liên tiếp triệt phá nhiều đường dây vận chuyển động vật hoang dã trái phép.
Điều đó cho thấy, tình hình tội phạm liên quan đến động vật hoang dã đang diễn biến ngày càng  phức tạp. Trong khi đó, quy định xử lý hành vi vi phạm của loại tội phạm này vẫn còn chưa đủ sức răn đe...
Gần đây nhất, vào hồi 16h ngày 5-4, tại km 509 - 508, đường Hồ Chí Minh, tổ tuần tra, kiểm soát thuộc Đội Cảnh sát giao thông (CSGT) đường Hồ Chí Minh (Phòng CSGT đường bộ, đường sắt Công an tỉnh) đã phát hiện xe ô tô cứu thương BKS 37A-03115 đi theo hướng Thạch Thành - Hòa Bình có dấu hiệu nghi vấn. Tiến hành kiểm tra phương tiện, phát hiện trên xe chở động vật dạng cá thể hổ, có trọng lượng trên 180kg được ướp lạnh và đựng trong bao tải nilông.
Trước đó, vào khoảng 4 giờ ngày 8-2, tại địa phận xã Thạch Lâm, huyện Thạch Thành,   tổ tuần tra, kiểm soát thuộc Đội CSGT đường Hồ Chí Minh đã phát hiện, bắt giữ 3 đối tượng gồm: Lê Thành Chung, sinh năm 1980; Đỗ Quốc Việt, sinh năm 1982 và Nguyễn Trọng Cương, sinh năm 1969 (đều ở huyện Cẩm Thủy), đang vận chuyển 2 chân động vật cá thể hổ trên xe ô tô BKS 36A - 179.49 do Lê Thành Chung điều khiển đi tiêu thụ.
Vào cuối tháng 12-2016, sau một thời gian theo dõi và lập án đấu tranh, Công an huyện Thạch Thành đã phối hợp với lực lượng kiểm lâm thu giữ một số lượng lớn động vật hoang dã đã ướp lạnh tại nhà Lê Nguyên Bốn, sinh năm 1964, xã Thạch Cẩm (Thạch Thành), bao gồm: 1 cá thể beo lửa, 1 cá thể mèo rừng, 1 cá thể gấu đen, 1 cá thể lợn rừng, 2 cá thể hươu, 1 cá thể khỉ mặt đỏ và 39 cá thể cầy các loại. Kết quả điều tra cho thấy,  Lê Nguyên Bốn thường xuyên đi mua và thu gom động vật hoang dã từ Lào và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị về Thạch Thành rồi ướp lạnh để bán lẻ cho các quán thịt rừng dọc đường Hồ Chí Minh và các tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình.
Thực tế cho thấy, tội phạm liên quan đến hành vi xâm hại, đe dọa các loài động vật hoang dã, thậm chí  có tên trong “sách đỏ” vẫn chưa được coi là loại hình tội phạm nghiêm trọng. Điều 190 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt cao nhất cho tội phạm về động vật hoang dã là mức 7 năm tù. Tuy nhiên, theo ghi nhận của phóng viên, đến nay trên địa bàn tỉnh, chưa có trường hợp nào bị tù giam liên quan đến hành vi vi phạm xâm hại, đe dọa các loài động vật hoang dã, quý hiếm.
Trong  đó, đối với các trường hợp cụ thể, cơ quan chức năng thường áp dụng Nghị định 157/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản để xử phạt (trong đó  lâm sản là sản phẩm  khai thác từ thực vật, động vật, vi sinh vật và các bộ phận, dẫn xuất của chúng có nguồn gốc từ rừng...). Việc áp dụng xử lý hành chính tuy không trái luật nhưng rõ ràng, điều này dường như đang làm giảm tính răn đe của pháp luật đối với người phạm tội.
Trong những năm gần đây, đặc biệt trong năm 2017- toàn thế giới  mạnh mẽ lên án và  thực hiện những hành động quyết liệt trong việc đóng cửa những thị trường buôn bán động vật hoang dã trái pháp luật và giảm nhu cầu tiêu dùng đối với những sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoang dã. Việt Nam là một trong các thành viên của Liên hợp quốc cam kết và quyết liệt tham gia thực hiện.
Theo đó, để đấu tranh, ngăn chặn loại tội phạm này, ngày 17-9-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 28/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách phòng ngừa, đấu tranh với hành vi xâm hại các loài động vật hoang dã trái pháp luật. Quán triệt và tổ chức thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các lực lượng chức năng trong tỉnh, nhất là Phòng CSGT đường sắt, đường bộ (Công an tỉnh) đang tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đến từng người dân, cán bộ, công chức, nhất là lực lượng thực thi pháp luật về cuộc chiến bảo vệ các loài động vật, thực vật hoang dã. Đồng thời, thường xuyên tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát thu thập, xử lý thông tin, nắm vững diễn biến tình hình tại các địa bàn, xác định trọng điểm, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các mặt hàng động, thực vật hoang dã, để xác lập các chuyên án đấu tranh, bắt giữ, xử lý triệt để các vụ việc vi phạm.
Song, cùng với đẩy mạnh việc thực thi luật pháp có hiệu quả, nên chăng cũng cần sớm thay thế, sửa đổi bổ sung một số quy định pháp luật có liên quan, đặc biệt là Bộ luật Hình sự năm 2015, cũng như có giải pháp tạo  việc làm bền vững cho cộng đồng gây nuôi, buôn bán hợp pháp động vật, thực vật hoang dã nhằm giảm thiểu tình trạng buôn bán, vận chuyển, xâm hại động vật hoang dã đang có chiều hướng phổ biến và diễn biến phức tạp như hiện nay...(Báo Thanh Hóa 21/5) đầu trang(

QUẢN LÝ – SỬ DỤNG – PHÁT TRIỂN RỪNG
Tỉnh Thái Bình đang thực hiện chủ trương mở rộng tuyến đê biển tại huyện Thái Thụy phục vụ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Xung quanh chủ trương này, thời gian qua đã có nhiều ý kiến tham vấn, phản biện cũng như góp ý cho dự án. Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã lược ghi ý kiến của lãnh đạo một số bộ, ngành, nhà khoa học và các đơn vị liên quan.
Ông TRẦN HỒNG HÀ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Nhất trí với chủ trương dịch chuyển rừng phòng hộ ra ngoài đê mới đắp
Trong Thông báo số 115/TB-BTNMT ngày 6-12-2016 thông báo ý kiến kết luận của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Thái Bình về việc chuyển diện tích rừng phòng hộ tại 2 xã Thụy Xuân, Thụy Hải huyện Thái Thụy nêu rõ: Về việc dịch chuyển 176,21ha rừng phòng hộ thuộc hai xã Thụy Xuân và Thụy Hải, huyện Thái Thụy ra ngoài đê mới đắp (đê biển số 8) để nâng bãi triều phía trong đê phục vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh: Bộ Tài nguyên và Môi trường nhất trí với chủ trương trên của tỉnh trên cơ sở phải bảo tồn nguyên vẹn diện tích, chất lượng, giá trị của rừng phòng hộ ven biển để đảm bảo hệ sinh thái của khu vực. Đề nghị tỉnh đưa phần diện tích này vào điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chỉ đạo cập nhật vào kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện làm căn cứ pháp lý để quyết định thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện dự án theo đúng quy định của pháp luật đất đai. Xây dựng kế hoạch dịch chuyển rừng phòng hộ cụ thể, đảm bảo đủ diện tích và chất lượng của rừng phòng hộ như hiện nay...
Ông HÀ CÔNG TUẤN, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Thống nhất chủ trương nhưng phải bổ sung phương án trồng rừng thay thế
Tại công văn số 10349/BNN-TCLN ngày 7-12-2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do Thứ trưởng Hà Công Tuấn ký gửi UBND tỉnh Thái Bình về việc chuyển mục đích rừng phòng hộ tại huyện Thái Thụy để phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu quan điểm: Thống nhất chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng 149,14 ha rừng phòng hộ sang mục đích khác không phải lâm nghiệp để phát triển kinh tế xã hội như đề nghị của UBND tỉnh Thái Bình tại tờ trình. Tuy nhiên, theo Điều 29, Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 3-3-2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và quy định hiện hành thì hồ sơ còn thiếu các tài liệu: Dự án đầu tư trên diện tích rừng chuyển đổi mục đích sử dụng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; báo cáo đánhgiá tác động môi trường việc chuyển mục đích sử dụng rừng; phương án đền bù giải phóng mặt bằng khu rừng và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; phương án trồng rừng thay thế khu chuyển đổi mục đích sử dụng sang mục đích khác...
Được biết, đến nay, UBND tỉnh Thái Bình đã và đang hoàn thiện các tài liệu trên.
Ông NGUYỄN THẾ ĐỒNG, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường: Đa dạng sinh học sẽ suy giảm nhưng có thể phục hồi
Phát biểu kết luận tại Hội thảo tham vấn tác động môi trường của dự án mở rộng tuyến đê biển, ông Nguyễn Thế Đồng nói: Trong hội thảo thấy các chuyên gia tham dự đều ủng hộ chủ trương của tỉnh Thái Bình trong việc mở rộng diện tích đất nhằm phát triển công nghiệp, dịch vụ nhưng cần lưu ý phải cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo tồn đa dạng sinh học. Cần quán triệt các quy định về bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là Chỉ thị 13-CT/TW ngày 12-1-2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Về mặt pháp lý như giải trình của UBND tỉnh Thái Bình, quy hoạch điều chỉnh tuyến đê biển của Thái Bình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Thái Bình triển khai theo quy hoạch mới hoàn toàn hợp pháp và phù hợp với chủ trương và UBND tỉnh đã có sự đồng ý của cơ quan chủ quản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đối với dự án. Khi thực hiện việc nắn đê mới sẽ dẫn tới việc suy thoái của các diện tích rừng ngập mặn ở phía trong đê là điều tất yếu do đặc điểm sinh thái của rừng ngập mặn. Về mặt khoa học, nếu lấy 150 ha rừng ngập mặn ở khu vực này (là rừng trồng sau năm 1990) thì trong giai đoạn nhất định đa dạng sinh học khu vực sẽ có sự suy giảm tuy nhiên sẽ phục hồi do đặc thù của khu vực Thái Thụy được bồi tụ, lấn biển và sinh thái thực vật tương đối đồng nhất…
TS TÔ VĂN TRƯỜNG, Chuyên gia độc lập về tài nguyên nước và môi trường: Tiếp nối công cuộc quai đê, lấn biển trong lịch sử
Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình lập dự án đầu tư : “Nâng bãi ổn định đê biển số 8 phát triển công nghiệp  từ Km26+700 đến Km31+700 huyện Thái Thụy để kết hợp tạo mặt bằng phát triển công nghiệp và dịch vụ”.
Mục tiêu dự án đắp đê mới, cách đê cũ khoảng 800 m, san lấp toàn bộ diện tích xen kẹt từ đê cũ đến đê mới để đảm bảo ổn định cho đê mới, kết hợp tạo mặt bằng phát triển công nghiệp-dịch vụ thu hút nhà đầu tư góp phần thúc đẩy khu phát triển khu kinh tế ven biển và thay đổi diện mạo, cảnh quan môi trường trong khu vực.
Nhìn lại lịch sử, ở Việt Nam, hoạt động khai khẩn đất đai được bắt đầu từ thời đại phong kiến nhà Trần (Trần Nhân Tông - 1248), đặc biệt là thời nhà Nguyễn, Nguyễn Công Trứ (1830) đã lấy địa bàn cấp huyện làm quy hoạch khai hoang và lấy thủy lợi làm căn cứ tổ chức quy hoạch ruộng đất.
Thái Bình đất chật, người đông, việc làm đê lấn biển là xu thế phát triển của bài toán phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thái Thụy được ông trời cho vùng cửa biển nơi đây là đất bồi và rừng ngập mặn do con người trồng ngày càng phát triển, lấn biển theo truyền thống của cụ Nguyễn Công Trứ thời xưa, để giải quyết vấn đề nan giải đất chật người đông. Khi con người tác động vào tự nhiên, không bao giờ được tất cả mà có được và mất (bài toán trade off). Vấn đề đặt ra làm sao cho cái lợi là lớn nhất và cái hại là ít nhất.
Về tổng thể chắc chắn việc xây dựng công trình đê biển ở Thái Thụy có ảnh hưởng đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học khu vực này. Tuy nhiên, khó để đánh giá  hoặc đưa ra so sánh được mức độ ảnh hưởng, thiệt hại về đa dạng sinh học (thiên nhiên) và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội rất lớn hiện nay ở các xã, huyện ven biển trong đó có huyện Thái Thụy cũng như của tỉnh Thái Bình. Thực tế, nhiều bãi bồi phát triển dọc bờ biển từ Hải Phòng đến Thanh Hóa hiện nay khu vực phía trong bìa rừng rất nhiều nơi đưa vào khai thác phát triển thủy sản, xây dựng đê quai, phát triển các loại hình sinh thái, dịch vụ,.... Do vậy, khó tránh khỏi xu thế phát triển lấn biển, lập khu dân cư, khu kinh tế ở mỗi khu vực này…
Thực tế việc chặt, phá rừng sẽ có ảnh hưởng đến đa dạng sinh học như báo cáo đã nêu, tuy vậy việc đánh giá đa dạng sinh học trong báo cáo chưa được làm rõ. Thực tế, quan sát khi ra hiện trường dự án khu vực bãi bồi phía Tây từ nhà máy đóng tàu Đại Dương đi ra dọc theo cửa sông Diêm Hộ thì có rất nhiều loài, loại cư trú vì trước đây khu vực này là hệ rừng ngập mặn phát triển tốt kết hợp sự lên xuống của triều ra vào vùng cửa sông đã tạo môi trường thuận lợi cho các loài, loại phát triển. Cho đến nay đây vẫn là khu vực cư trú của nhiều loại chim, cá tôm nhiều hơn so với khu vực phía dự án.
Các công cuộc quai đê, lấn biển của Doanh điền Nguyễn Công Trứ lập nên huyện Tiền Hải năm 1828 dưới triều vua Minh Mạng. Từ đó, đến nay công cuộc quai đê, lấn biển vẫn liên tục được hậu thế tiến hành như quai đê lấn biển Cồn Vành những năm 90 của thế kỷ trước. Chính vì vậy, việc lấn làm đê biển 8 như là một việc tiếp nối chu trình mà cha ông để lại trên cơ sở quá trình phát triển mạnh mẽ của bãi bồi huyện Thái Thụy.
Với những lợi thế sẵn có cùng thành tựu đạt được, tháng 2 năm 2011, Thái Bình đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương thành lập và bổ sung Khu kinh tế ven biển Thái Bình với diện tích 30,583 ha, trong đó giai đoạn I là 15,000 ha vào Quy hoạch tổng thể phát triển ven biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó giai đoạn 1 sẽ tập trung khai thác vùng bãi bồi ngập nước cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Tuy nhiên, để đảm bảo các khu vực được mở rộng an toàn trước các rủi ro do thiên tai từ biển, nhiệm vụ quai đê bảo vệ vùng lấn biển phải đi trước một bước.
Tuyấn đê biển 8 là tuyến đê nối đê hữu sông Thái Bình ở phía Bắc và đê tả sông Trà Lý phía Nam tạo nên vòng khép kín bảo vệ một nửa phía Bắc huyện Thái Thụy. Tuyến đê này nằm giữa hai cửa sông là cửa Thái Bình và cửa Diêm Điền, phía trước đê là bãi bồi rộng lớn được bồi đắp bởi hai con sông này. Do lịch sử phát triển, trước đây tuyến đê đi song song với tuyến đường bờ, sau đó do nhu cầu quai đê - lấn biển, tuyến đê đã được điều chỉnh một đoạn từ K24 đến K26+700 để bảo vệ khu nuôi trồng thủy sản xã Thụy Xuân tạo nên một tuyến đê gấp khúc tại đây. Việc lấn biển một mặt điều chỉnh lại tuyến đê gấp khúc không trơn thuận, mặt khác mở rộng phạm vi bảo vệ và diện tích phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế ven biển của tỉnh.
Dự án mở tuyến đê Thái Thụy-Thái Bình là cần thiết vì nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, trong qúa trình lập hồ sơ chuẩn bị đầu tư, thực thi dự án và hậu kiểm cần bổ sung làm rõ các giải pháp giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường sinh thái như đã phân tích ở trên.
Ông ĐẶNG VĂN THÁI, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn: Lý giải vì sao cần lấy 320 ha
Giải trình về một số nội dung phản biện tại hội nghị tham vấn ngày 25-2-2017, trong báo cáo số 31/BC-BQLDANN ngày 31-3-2017, ông Đặng Văn Thái khẳng định cơ sở pháp lý của việc quai đê vì tuyến đê biển số 8 đoạn từ Km26+700 đến Km31+700 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh tuyến và bổ sung vào hệ thống quy hoạch đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam tại văn bản số 1797/TTg-KTN ngày 6-11-2013.
Về ý kiến tại sao cần lấy 320 ha, có thể giảm diện tích rừng ngập mặn cần lấy không, Ban Quản lý dự án giải thích: Tuyến đê biển 8 là tuyến đê nối đê hữu sông Thái Bình ở phía Bắc và đê tả sông Trà Lý phía Nam tạo nên vòng khép kín bảo vệ một nửa phía Bắc huyện Thái Thụy. Tuyến đê này nằm giữa hai cửa sông là cửa Thái Bình và cửa Diêm Điền, phía trước đê là bãi bồi rộng lớn được bồi đắp bởi hai con sông này. Trước đây tuyến đê đi song song với tuyến đường bờ, sau đó do nhu cầu quai đê lấn biển, tuyến đê đã được điều chỉnh một đoạn từ km 24 đến km 26+700 để bảo vệ khu nuôi trồng thủy sản xã Thụy Xuân và mở rộng quỹ đất để phát triển kinh tế tuy nhiên lại tạo ra một tuyến đê gấp khúc tại đây về lâu dài sẽ gây ra điểm xung yếu cục bộ. Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh tuyến đê biển 8 để tạo một tuyến đê trơn thuận, không gấp khúc.
Qua rà soát, khu vực dự án chỉ có rừng trồng, không có rừng tự nhiên như ý kiến đặt câu hỏi tại hội thảo tham vấn. (Quân Đội Nhân Dân 23/5) đầu trang(
Quy hoạch Sơn Trà (Đà Nẵng) vừa được công bố đã gây nhiều băn khoăn về khả năng lợi ích nhóm chi phối, khiến bán đảo độc nhất vô nhị này bị bê tông hóa. Bên hành lang Quốc hội, VnExpress đã trao đổi với Phó thủ tướng Vũ Đức Đam.
Hiệp hội Du lịch Đà Nẵng gửi “tâm thư” kiến nghị Thủ tướng xem xét lại quy hoạch tổng thể phát triển du lịch quốc gia Sơn Trà. Chính phủ luôn trân trọng các góp ý, phản biện và đều giao các cơ quan theo đúng chức năng, thẩm quyền xem xét với tinh thần cầu thị.
Ngay khi báo chí đưa tin, dù chưa nhận được Bản kiến nghị tôi đã yêu cầu Văn phòng Chính phủ cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ Văn hóa) theo dõi xử lý. Khi Văn phòng Chính phủ nhận được bản kiến nghị, tôi đã có ý kiến và Văn phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng. Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Văn hóa chủ trì cùng UBND TP Đà Nẵng xem xét. Khi nghe phản ánh về cuộc làm việc "không tìm được tiếng nói chung" giữa Tổng cục Du lịch và Hiệp hội tại Đà Nẵng tôi đã yêu cầu Bộ và Đà Nẵng khẩn trương xem xét các kiến nghị của Hiệp hội. Tinh thần là phải cầu thị thật sự đồng thời cũng phải rất khoa học cả về cách làm và nội dung.
Không có quy hoạch này thì chỉ với các dự án thành phố đã cấp cũng không ổn và càng không ổn nếu sau này tiếp tục cho mở rộng hoặc cấp mới. Chính Đà Nẵng cũng thấy vậy nên mới đồng ý với Bộ trình quy hoạch lên Thủ tướng.
Chúng ta có thể thắc mắc sao không làm quy hoạch từ sớm đi mà mãi tới 2013 mới làm? Vì tháng 1/2013 thì Thủ tướng quyết định đưa Sơn Trà vào danh mục các Khu Du lịch quốc gia, từ đó mới phải có quy hoạch do Thủ tướng phê duyệt.
11 dự án đã được phê duyệt đầu tư trước khi có Quy hoạch du lịch tổng thể. Như vậy sẽ có chủ đầu tư đang có dự án ở đây được lợi và ngược lại nhiều chủ đầu tư sẽ phải hủy dự án. Một quy hoạch mà thay vì cho mở rộng quy mô đầu tư hay có thêm nhiều dự án đầu tư lại yêu cầu phải điều chỉnh theo hướng giảm xuống thì sẽ đụng chạm lợi ích một số nhà đầu tư và cũng đặt chính quyền thành phố vào thế phải xử lý với những dự án đã đồng ý chủ trương, đã cấp phép. Không tránh khỏi có người muốn tất cả các dự án đã cấp phép được tiếp tục. Có người muốn được cấp thêm, cấp mới. Có người muốn bớt đi, bớt nữa. Thậm chí muốn xóa hết để về nguyên sơ.
Tôi cho rằng, bản quy hoạch được lập chính là cơ sở để Đà Nẵng rà soát, điều chỉnh lại các dự án đã cấp trước đây theo hướng có lợi hơn cho phát triển bền vững của Sơn Trà, của thành phố. Nếu không có bản quy hoạch này, thì ngay chỉ với dự án Đà Nẵng đã cấp phép cũng không ổn và càng không ổn nếu sau này tiếp tục cấp thêm dự án mới hay cho mở rộng dự án cũ.
Dẫn Điều 30 Luật Đầu tư, Hiệp hội Du lịch Đà Nẵng cho rằng quy hoạch tổng thể Sơn Trà đã vi phạm luật khi cho phép các chủ đầu tư triển khai dự án du lịch với diện tích trên 1.000 ha. Khi trình quy hoạch này các Bộ và Văn phòng Chính phủ đều đã xem xét đảm bảo đúng quy định của Luật. Vừa qua, tôi đã yêu cầu Bộ Tư pháp kiểm tra lại. Bộ Tư pháp cũng khẳng định là quy hoạch được ký đúng thẩm quyền và không sai Luật Đầu tư.
Điều 30, Luật Đầu tư quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư với các dự án đầu tư, còn quy hoạch tổng thể phát triển kinh doanh du lịch Sơn Trà không phải là một dự án đầu tư.
Theo Luật Du lịch, Khu Du lịch Quốc gia phải có diện tích từ 1.000 ha trở lên. Quy mô quy hoạch là 1.056 ha, không có nghĩa phá đi từng ấy diện tích rừng để xây dựng. Diện tích xây dựng các cơ sở du lịch, kể cả công trình phụ trợ ở Sơn Trà không tới 2% và xây ở chỗ nào cũng phải có dự án, phải tuân thủ quy định về đầu tư xây dựng, về đất đai, về bảo vệ rừng.
Dù việc phê duyệt quy hoạch là đúng quy trình, đúng thẩm quyền, không trái luật nhưng khi có ý kiến phản biện, đóng góp thì vẫn phải xem xét. Thực tế từng có nhiều ý kiến rất xác đáng và được tiếp thu. Không ít các văn bản, kể cả Nghị định của Chính phủ đã được điều chỉnh, bổ sung nhờ có các ý kiến như vậy.
Như vậy có nghĩa là không có chuyện quy hoạch được thực hiện đúng quy trình rồi thì không xem xét. Thủ tướng đã giao Bộ Văn hóa và Đà Nẵng xem xét các kiến nghị trên tinh thần cầu thị và khoa học. Các cơ quan, chuyên gia sẽ phải làm việc với nhau, để phân tích thấu đáo.
Theo quy định thì Bộ Văn hóa là cơ quan chịu trách nhiệm lập, thẩm định và trình quy hoạch. Vì quy hoạch ở đâu cũng phải tính tới lợi ích tại địa bàn nên đương nhiên Bộ phải phối hợp chặt chẽ với Đà Nẵng đề trình.
Nếu đề nghị điều chỉnh là xác đáng và điều chỉnh theo hướng giảm xây dựng, tăng bảo vệ rừng, môi trường thì tôi sẽ đồng ý. Ngược lại, tôi sẽ không chấp nhận. (Phụ Nữ News 23/5) đầu trang(
Đó là quan điểm của ĐBQH Dương Trung Quốc chia sẻ với PV báo chí bên hành lang Quốc hội chiều nay 22/5 xung quanh câu chuyện công tác cán bộ quản lý để xảy ra nhiều tồn tại ở các địa phương, cụ thể nạn khai thác cát và phá rừng tái diễn nhiều năm.
Sáng qua, trong báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, cử tri và nhân dân nhiều nơi rất bức xúc về tình trạng khai thác cát trái phép vẫn diễn ra ngang nhiên, bất chấp pháp luật, là một nguyên nhân căn bản gây sạt lở nghiêm trọng dọc các bờ sông, ven biển ở nhiều địa phương, nhất là tại các tỉnh miền Trung và Nam bộ, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân.
Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng cho biết, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã nhiều lần phản ánh với Quốc hội, Chính phủ về tình trạng khai thác cát trái phép và nạn phá rừng, trong đó đã 2 lần kiến nghị với Chính phủ vào năm 2013, 2014 và 4 lần báo cáo liên tục tại các kỳ họp của Quốc hội khóa XIII, khóa XIV trong các năm 2013, 2014, 2015, 2016. Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo các bộ, ngành, chính quyền địa phương phải chấn chỉnh tình trạng này nhưng đến nay, việc khai thác cát trái phép và chặt phá rừng vẫn diễn ra với mức độ tinh vi, thách thức chính quyền và dư luận.
Trao đổi bên hành lang Quốc hội về vấn đề này, ĐBQH Dương Trung Quốc cho rằng, tập tính của người Việt là cả nể, phải thay đổi dần. “Đồng thời những giá trị ứng xử trong đời sống mới phải thể hiện tinh thần mà chúng ta nên học các nước là tinh thần rất nghiêm túc thực thi luật pháp, chứ không lẫn lộn giữa pháp trị và đức trị theo đó cứ đúng luật pháp mà làm”- ông Dương Trung Quốc nêu.
ĐB Dương Trung Quốc nêu ví dụ, chúng ta thấy gần như  điệp khúc khi xử lý vấn đề gì bao giờ cũng có câu “chế tài không đủ mạnh”. “Tôi thấy rất vô lý, bởi chế tài là ai? Là do chính chúng ta đặt ra.
Vấn đề nhân sự, bộ máy nếu chúng ta cứ theo quy trình thì lủng củng, không giải quyết được. Bây giờ, một sự việc một địa phương xảy ra một sự việc gì đó thì cứ nắm tóc ông đầu tiên, thì ông đầu tiên sẽ phải thúc ông ở dưới mình, bộ máy sẽ vận hành.
ĐB Quốc cho rằng rất đáng buồn khi các quan chức nhất là ở địa phương có những việc xảy ra tại đó nhưng vẫn cho không phải việc của mình. “Nếu mà cái khai thác cát trên địa bàn mà chúng ta thấy có đầu tiên cứ “truy” ông chủ tịch xã (cách chức) khi đó ông chủ tịch xã sẽ phải làm để không xảy ra tình trạng này. Nếu không thực hiện được thì ông chủ tịch xã kế nhiệm phải làm, chúng ta cứ nói thiếu người nhưng tôi cho rằng chúng ta không thiếu người đâu. Chỉ thiếu người có trách nhiệm thôi”.
ĐBQH Dương Trung Quốc cho rằng có rất nhiều “vấn đề” qua câu chuyện đất lở. Bao nhiêu lâu nay QH nói đến tình trạng khai thác cát. Có tỉnh ở Nam Bộ báo chí phản ánh còn đi khai thác cát bán cho nước ngoài để lập đảo mà “chúng ta có động chạm gì đâu trong khi thiên nhiên thì thay đổi liên tục”.
“Cần phải giải quyết tận gốc vấn đề với thiên nhiên phải ứng phó, với con người chúng ta không phải ứng phó nữa mà phải xử lý thật sự. Tại sao tình trạng cát tặc đến bây giờ Chủ tịch MTTQVN phát biểu xã hội lên tiếng như thế, Thủ tướng phát biểu như thế, chuyên này phải kiên quyết. Tại sao không tịch thu mà lại vẫn theo chế tài như cũ” – ông Dương Trung Quốc nêu. (Infonet 22/5) đầu trang(
Bằng nhiều giải pháp và hướng đi phù hợp, đến nay, kinh tế lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh đã khẳng định được vị thế. Không chỉ đóng góp lớn vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là với người dân miền núi, kinh tế lâm nghiệp còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Song, bên cạnh những kết quả đã đạt được, kinh tế lâm nghiệp phát triển chưa xứng với tiềm năng, vẫn còn những tồn tại cần tháo gỡ từ phát triển vùng nguyên liệu đến chế biến.
Ông Phùng Văn Vinh - Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp cho biết: Việc phát triển kinh tế lâm nghiệp được thực hiện theo hướng bền vững dựa trên cơ sở phát triển toàn diện và đồng bộ các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, trồng rừng, cải tạo rừng, khai thác, chế biến lâm sản, dịch vụ môi trường rừng và du lịch sinh thái. Từ đó gia tăng các giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu; thu hút mọi nguồn lực xã hội đầu tư bảo vệ rừng, phát triển rừng và hưởng lợi từ rừng. Bên cạnh phát triển vốn rừng, để nâng cao giá trị sản phẩm lâm nghiệp, nhiều doanh nghiệp chế biến đi vào sản xuất nâng cao giá trị gỗ rừng trồng và khép kín chu trình tạo lập sự gắn kết trong sản xuất giữa vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến.
Phong trào phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trồng rừng theo các chương trình dự án được triển khai rộng khắp làm cho độ che phủ rừng tăng nhanh. Đến nay, độ che phủ rừng của tỉnh đạt trên 50%. Chính việc xác định phát triển kinh tế dựa trên thế mạnh của rừng cùng với đầu tư thích đáng cho phát triển rừng mà đến nay, người dân đã có ý thức hơn trong việc trồng rừng để phát triển kinh tế. Kinh tế lâm nghiệp đã có bước phát triển tốt, tăng thu nhập cho người lao động, tạo thêm nhiều việc làm, giải quyết lao động dôi dư ở các vùng nông thôn, miền núi, góp phần vào công tác ổn định dân cư, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh tổng diện tích có rừng và đất lâm nghiệp là trên 188 nghìn ha, diện tích đã giao cho các chủ rừng nhóm I và nhóm II quản lý và bảo vệ là trên 139 nghìn ha. Diện tích chưa giao là trên 49 nghìn ha, do UBND cấp xã quản lý. Diện tích đất rừng và đất lâm nghiệp được cấp giấy chứng nhận là trên 136 nghìn ha. Từ năm 2010 đến nay, giá trị tăng thêm theo giá so sánh năm 2010 mỗi năm của ngành đạt trên dưới 400 tỷ đồng, sản lượng gỗ khai thác đạt 350-400 nghìn m3/năm.
Tỉnh chú trọng đến nguồn giống để sản xuất giống lâm nghiệp phục vụ trồng rừng qua việc kiểm soát nguồn hạt giống keo nhập ngoại, tuyển chọn nguồn giống đầu vào nuôi cấy mô, điều tra khảo sát chuyển hóa một số lâm phần cây bản địa thành rừng giống... Toàn tỉnh hiện có khoảng 25 vườn ươm cố định với số lượng 56 triệu cây giống/năm và hàng trăm vườn ươm giống của các hộ.
Trong phát triển kinh tế lâm nghiệp vẫn còn có những khó khăn khiến kinh tế lâm nghiệp chưa xứng với tiềm năng hiện có. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có tổng số trên 740 cơ sở chế biến gỗ. Hầu hết các cơ sở chế biến gỗ sản xuất có quy mô nhỏ, còn mang tính tự phát, chưa tập trung. Công nghệ, thiết bị của các cơ sở đa phần lạc hậu, sử dụng lao động phổ thông, năng suất thấp. Nguồn nguyên liệu đầu vào chưa ổn định, chất lượng nguyên liệu thấp, sản phẩm rừng trồng ít gỗ lớn nên tỷ lệ hao hụt cao, có lúc các cơ sở chế biến gỗ còn thiếu nguyên liệu, ảnh hưởng tới quá trình sản xuất.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra còn bấp bênh, một số mặt hàng phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, sản phẩm chủ yếu chế biến thô, tiêu thụ trong nước và tiêu thụ theo đường tiểu ngạch nên không ổn định dẫn tới một số cơ sở gặp nhiều khó khăn hoặc thua lỗ phải dừng hoạt động. Cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trong hoạt động chế biến gỗ còn hạn chế, do vậy chưa kêu gọi được đầu tư vào lĩnh vực chế biến lâm sản. Diện tích khai thác chủ yếu là rừng trồng, tập trung trồng keo, bạch đàn, sản phẩm khai thác phục vụ chế biến tại chỗ làm gỗ xây dựng, ván ép, ván dăm, nguyên liệu giấy... chưa có sản phẩm xuất khẩu. Các hình thức khai thác vẫn là thủ công nên năng suất lao động chưa cao. Rừng trồng tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, nơi có cơ sở hạ tầng, kinh tế chậm phát triển, ảnh hưởng lớn đến hoạt động khai thác và vận chuyển lâm sản.
Vai trò kinh tế của rừng sản xuất chưa đem lại hiệu quả kinh tế tương xứng để có thể giảm cách biệt thu nhập so với các cây trồng và ngành nghề khác. Thực tế ở nhiều nơi xác định trồng loại cây gì đem lại hiệu quả kinh tế vẫn là vấn đề đặt ra, bởi lâu nay, người dân đã có rừng nhưng kinh tế vẫn chưa thực sự khấm khá nhờ rừng. Diện tích đất rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh là gần 121 nghìn ha, năm 2016, diện tích khai thác đạt trên 6,3 nghìn ha, sản lượng gỗ khai thác đạt trên 390 nghìn m3. Năng suất rừng trồng bình quân đạt gần 12m3/ha/năm. Năng suất, chất lượng rừng trồng còn thấp do hệ thống nguồn giống và hạ tầng kỹ thuật sản xuất giống chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất giống công nghệ cao.
Việc đầu tư thâm canh, bón phân cho cây trồng và áp dụng biện pháp kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất lâm nghiệp còn hạn chế do thiếu nguồn lực. Trồng rừng gỗ lớn có chu kỳ dài hơn, chi phí đầu tư lớn hơn, dẫn đến quá trình được khai thác, thu hồi vốn đầu tư lâu, trong khi điều kiện người dân còn khó khăn, do đó chưa mặn mà phát triển trồng rừng gỗ lớn. Nhiều hộ trồng rừng chưa thấy được hiệu quả của rừng gỗ lớn nên sau 5 – 6  năm trồng rừng, cây đang thời kỳ sinh trưởng  đã thu hoạch để trồng lứa khác. Quy mô diện tích đất lâm nghiệp của mỗi hộ nhỏ lẻ, thiếu vốn sản xuất nên trồng rừng quảng canh, chu kỳ ngắn để nhanh cho sản phẩm, thu nhập. Vì vậy, việc trồng và chuyển hóa rừng gỗ lớn chưa được nhiều hộ chú trọng.
Từ thực trạng trên, để phát triển kinh tế lâm nghiệp trước hết cần thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, cần đánh giá hiệu quả việc sử dụng quỹ đất lâm nghiệp, giải quyết dứt điểm tình trạng chồng lấn, tranh chấp đất lâm nghiệp trên địa bàn; kiên quyết xử lý, thu hồi những diện tích đất lâm nghiệp đã được giao nhưng không sử dụng, cấp không đúng đối tượng hoặc sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả… để giao cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu.
Giao rừng, cho thuê rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm quản lý, bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng và đất rừng, hỗ trợ người dân, đặc biệt là ở các xã miền núi đặc biệt khó khăn; nhằm giảm nghèo và tạo động lực phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Vì vậy cần tiếp tục duy trì kết quả giao đất, giao rừng gắn với tăng cường hiệu quả công tác quản lý đất rừng theo quy định của Luật Đất đai để người sản xuất yên tâm, mạnh dạn đầu tư phát triển.
Để tăng thu nhập từ rừng sản xuất, cần nghiên cứu những loài cây có giá trị kinh tế có thể kết hợp canh tác dưới tán rừng hoặc những loại cây ngắn ngày trồng xen trong giai đoạn vườn rừng chưa khép tán như các loại cây dược liệu… Ngoài ra, đào tạo và phát triển thêm một số nghề, đặc biệt là các nghề sử dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương kết hợp du lịch sinh thái, nhân rộng mô hình nhận khoán quản lý, bảo vệ rừng. Thực hiện tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp trên cơ sở tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc chọn tạo giống có chất lượng và năng suất cao cho nhóm cây chủ lực trồng rừng sản xuất.
Tổ chức sản xuất theo hướng liên kết từ trồng rừng, thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; hình thành các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, lấy doanh nghiệp làm trung tâm liên kết chuỗi sản xuất đối với từng sản phẩm chủ lực, nhất là sản phẩm xuất khẩu. Nhân rộng các mô hình hợp tác trong lâm nghiệp, thúc đẩy tạo điều kiện thuận lợi về thể chế để nông dân, hộ gia đình góp sức cùng doanh nghiệp tổ chức sản xuất lâm nghiệp quy mô lớn. Tăng diện tích trồng rừng gỗ lớn là một trong những giải pháp nhằm tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng trồng theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng và sản phẩm gỗ chế biến từ rừng trồng, tạo vùng nguyên liệu tập trung, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản. (Báo Phú Thọ 22/5) đầu trang(
Đến thời điểm này, Ban quản lý dự án Bảo vệ và Phát triển rừng huyện Chợ Đồn đã cấp phát gần 370 vạn cây giống đợt 1 cho người dân triển khai trồng rừng.
Ban quản lý dự án Bảo vệ và Phát triển rừng huyện Chợ Đồn đã phối hợp với Công ty TNHH Trường Thành Bắc Kạn; Cơ sở sản xuất và kinh doanh giống cây trồng Mạnh Minh cấp cây giống quế, mỡ, keo  cho các xã, thị trấn để trồng trên 240ha rừng. Trong đó, có 130ha trồng rừng sản xuất, trồng cây phân tán 110ha.
Năm 2017, huyện Chợ Đồn có kế hoạch trồng rừng tập trung ở 20 xã, thị trấn với diện tích 370ha.  Đến thời điểm này, toàn huyện đã xử lý thực bì được trên 350ha và trồng mới được 64ha. (Đài PTTH Bắc Kạn 19/5) đầu trang(
Thời điểm này cùng với việc tập trung chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho lúa xuân cuối vụ, người dân huyện Bạch Thông cũng đang tích cực đẩy nhanh tiến độ trồng rừng. Tính đến nay, địa phương đã trồng mới được gần 150ha rừng, đạt hơn 30% kế hoạch giao.
Năm 2017, huyện Bạch Thông có kế hoạch trồng mới gần 500ha rừng, Tuy nhiên số diện tích người dân đăng ký trồng tính đến nay đã đạt gần 550ha, vượt 10% kế hoạch giao, bao gồm keo, mỡ, quế, lát, trám, xoan, bồ đề… Trong đợt I vừa qua, huyện Bạch Thông đã thực hiện cấp 38 vạn cây gồm keo và mỡ, hiện địa phương đang tiếp tục cấp cây giống đợt II cho người dân nhằm đảm bảo tiến độ đề ra.
Để phấn đấu trồng xong diện tích rừng còn lại trong tháng 6 theo đúng kế hoạch, hiện nay huyện Bạch Thông đang tiếp tục tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn tổ chức rà soát các diện tích đã được thiết kế; phân công cán bộ xuống địa bàn để hỗ trợ kỹ thuật cho các hộ tham gia trồng rừng; đồng thời vận động người dân tranh thủ thời tiết thuận lợi tích cực đẩy nhanh tiến độ trồng rừng. (Đài PTTH Bắc Kạn 22/5) đầu trang(
Trung tâm khuyến nông tỉnh phối hợp với Trung tâm khuyến nông quốc gia vừa tổ chức tập huấn kỹ thuật nhân rộng mô hình trồng rừng thâm canh cây gỗ lớn cho hơn 80 học viên là nông dân các địa phương của Thành phố và huyện Hòa An.
Lớp tập huấn đã tập trung vào các nội dung: giới thiệu tổng quan về trồng rừng và trồng rừng thâm canh gỗ lớn; thực trạng về trồng rừng thâm canh hiện nay ở các địa phương; kỹ thuật trồng rừng thâm canh, phương thức mật độ, trồng rừng, kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý bảo vệ rừng. Kỹ thuật chuyển hóa rừng gỗ nhỏ thành rừng gỗ lớn đối với rừng Keo, rừng Bạch Đàn, rừng Thông, rừng gỗ Mỡ và kỹ thuật chuyển hóa rừng gỗ nhỏ một số loài cây mọc nhanh thành rừng gỗ lớn; thông tin về một số mô hình trồng rừng thâm canh và chuyển hóa có hiệu quả, đem lại thu nhập cho người dân.
Đây là những kiến thức bổ ích giúp cho các hộ dân có điều kiện về đất đai có thể vận dụng và nhân rộng mô hình trồng trên đất dốc, khô cằn vừa góp phần đa dạng hóa cây trồng phủ xanh đất trống, đồi trọc vừa giúp có thêm thu nhập từ nghề trồng rừng. (Đài PTTH Cao Bằng 22/5) đầu trang(
Phát triển rừng trồng gỗ lớn - Hướng đi mới ở huyện Thường Xuân, Thanh Hóa
Hiện nay, hầu hết diện tích rừng sản xuất ở huyện Thường Xuân được trồng và khai thác gỗ non để sản xuất dăm gỗ, bột giấy nên năng suất thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao. Vì vậy, việc phát triển kinh doanh rừng trồng gỗ lớn sẽ là hướng phát triển mới, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của người trồng rừng trên địa bàn huyện.
Để phát triển rừng gỗ lớn theo quy hoạch của huyện, xã Vạn Xuân tiến hành điều tra, rà soát lại diện tích rừng trồng, diện tích rừng đã khai thác, rừng nghèo kiệt, vận động các hộ tiếp tục trồng mới theo hướng trồng rừng gỗ lớn. Phấn đấu trong năm 2017, toàn xã trồng mới được trên 100 ha rừng tập trung theo hướng rừng trồng gỗ lớn.
Thực hiện QĐ 4170 ngày 27 tháng 10 năm 2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa về đề án phát triển rừng trồng kinh doanh gỗ lớn đến năm 2020, huyện Thường Xuân chỉ đạo cho các địa phương tiến hành quy hoạch, phân vùng, phân khu để tập trung trồng rừng gỗ lớn, phấn đấu hằng năm, tỷ lệ rừng trồng gỗ lớn đạt 50% tổng diện tích trồng rừng mới.
Huyện Thường Xuân hiện có 2.400 ha rừng trồng gỗ lớn. Để nâng cao năng suất, chất lượng từ rừng trồng gỗ lớn, tạo vùng nguyên liệu gỗ tập trung cho chế biến, huyện Thường Xuân tiếp tục rà soát, bổ sung, hướng dẫn kỹ thuật thâm canh rừng trồng gỗ lớn cho các địa phương. Vận động các hộ tiến hành trồng mới, trồng lại rừng sau khai thác, cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt để trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ thành rừng trồng kinh doanh gỗ lớn một cách hiệu quả, bền vững. (Đài PTTH Thanh Hóa 22/5) đầu trang(
Ông Nguyễn Thế Dũng, Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết, từ đầu năm 2017 đến nay, đơn vị đã tăng cường kiểm tra, xử lý kiên quyết các đối tượng lấn chiếm đất lâm nghiệp, đất rừng phòng hộ đầu nguồn để trồng rừng kinh tế trái phép.
Cụ thể, đã nhổ bỏ hơn 157 ha cây keo lai trồng trái phép trên diện tích rừng bị phá, đất lâm nghiệp bị lấn, chiếm trái pháp luật tại các huyện An Lão (19,5 ha), Hoài Ân (0,6 ha), Phù Mỹ (111,7 ha), Vĩnh Thạnh (gần 6,5 ha)... Qua đó, đã góp phần ngăn chặn tình trạng lấn chiếm đất lâm nghiệp, phá rừng trái phép để trồng rừng kinh tế. (Báo Bình Định 21/5) đầu trang(
Rừng trồng được xem là nguồn nguyên liệu ổn định giúp ngành đồ gỗ trong nước phát triển, hạn chế được tình trạng phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam hằng năm đạt từ 6-7 tỉ USD. Tuy nhiên, các doanh nghiệp (DN) chế biến gỗ xuất khẩu phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ từ nhiều nước trên thế giới với kim ngạch từ 2,2-2,3 tỉ USD/năm, trong khi năng lực phát triển rừng trồng trong nước có nhiều tiềm năng. Nếu phát triển tốt việc trồng rừng sẽ giảm được số ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu gỗ đáng kể. Chưa hết, phát triển rừng trồng còn góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường hiệu quả...
Hằng năm, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 4-5 triệu m3 gỗ nguyên liệu, bao gồm cả gỗ tròn và gỗ xẻ, với giá trị nhập khẩu là 2,2-2,3 tỉ USD. Lượng cung gỗ có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới đang có sự biến động lớn trong những năm gần đây. Chẳng hạn, lượng cung tại các nước tiểu vùng sông Mê Kông sụt giảm mạnh, chủ yếu do các chính sách cấm xuất khẩu từ những quốc gia này. Chưa hết, Trung Quốc bắt đầu thực hiện việc đóng cửa rừng tự nhiên, theo đó, Trung Quốc sẽ thiếu hụt khoảng 50 triệu m3 gỗ nguyên liệu mỗi năm; đồng nghĩa với việc nguồn gỗ từ Việt Nam sẽ "chảy" mạnh hơn sang nước này, từ đó ảnh hưởng đến doanh nghiệp (DN) gỗ trong nước.
Xu hướng thị trường cho thấy nhu cầu sử dụng gỗ rừng trồng, đặc biệt để sản xuất các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu vào các thị trường có những đòi hỏi chặt chẽ về tính pháp lý của nguồn gốc gỗ nguyên liệu đầu vào như Mỹ, châu Âu ngày càng lớn. Nguồn gỗ nguyên liệu từ rừng trồng ngày càng được ưa chuộng và là một trong những nguồn cung quan trọng cho ngành gỗ. Sử dụng sản phẩm gỗ hợp pháp hiện nay đã trở thành yêu cầu bắt buộc ở hầu hết các quốc gia.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các DN xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường EU cũng phải chú ý với nhiều thách thức từ chương trình FLEGT của EU. Theo đó, chương trình này nghiêm cấm các nhà nhập khẩu đồ gỗ châu Âu tham gia phân phối, lưu thông trên thị trường EU các sản phẩm có nguồn gốc từ gỗ khai thác bất hợp pháp. Do đó các DN xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường này phải triển khai chương trình quản lý rủi ro liên quan đến tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu cũng như sản phẩm đồ gỗ hoàn chỉnh trên cơ sở quy định pháp lý của EU.
Phát triển rừng trồng có vai trò quan trọng đối với ngành chế biến gỗ và dăm gỗ xuất khẩu. Được biết, sản lượng nguồn gỗ rừng trồng trong nước khai thác hằng năm hiện khoảng 20 triệu m3, trong đó có khoảng 80% nguồn gỗ này là gỗ có đường kính nhỏ được sử dụng làm nguyên liệu dăm và MDF. Phần còn lại 20% được sử dụng sản xuất các sản phẩm đồ gỗ chủ yếu phục vụ xuất khẩu.
Để có được nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp ổn định, cần nhiều mô hình liên kết trồng rừng giữa các công ty chế biến gỗ xuất khẩu và các hộ trồng rừng. Được biết, mô hình này đã được hình thành trong nhiều năm qua và đã có bước phát triển đáng kể, tuy nhiên, những mô hình hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu cũng như mang lại hiệu quả cao. Các mô hình liên kết trồng rừng giữa các công ty và hộ trồng rừng vẫn còn mang tính chất tự phát, được hình thành chủ yếu do nhu cầu kết nối của công ty và hộ trồng rừng.
Hiện có khoảng 60%-70% tổng lượng gỗ rừng trồng được khai thác hằng năm có nguồn gốc từ hộ trồng rừng, số còn lại từ DN và HTX. Từ đó cho thấy hộ gia đình có vai trò quan trọng trong việc trồng rừng. Có khoảng 70%-80% nguồn gỗ từ rừng trồng trong nước được sử dụng làm dăm, phần còn lại được đưa vào chế biến đồ gỗ phục vụ xuất khẩu. Trong khi đó gỗ đưa vào chế biến có giá trị gia tăng lớn hơn so với gỗ đưa vào chế biến dăm.
Nguồn cung gỗ rừng trồng trong nước ngày càng quan trọng, trực tiếp góp phần giảm sự phụ thuộc của ngành chế biến gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Sử dụng nguồn gỗ rừng trồng thay thế cho nguồn nhập khẩu còn giúp giảm thiểu rủi ro trong việc nhập khẩu các loại gỗ bất hợp pháp, từ đó cũng giảm thiểu được rủi ro khi xuất khẩu đồ gỗ. (Người Lao Động 22/5) đầu trang(
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 4 năm 2017 đạt 594 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 4 tháng đầu năm 2017 ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2016.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản (3 thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2017) chiếm 68,8% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Các thị trường có giá trị xuất khẩu gỗ tăng mạnh là Trung Quốc (62,6%), Hàn Quốc (16,6%), Đức (16,5%), Hoa Kỳ (16%), Úc (14,2%), Canada (9,9%) và Hà Lan (9,5%).
Trong khi đó, ước giá trị nhập khẩu tháng 4/2017 đạt 169 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 4 tháng đầu năm 2017 đạt 688 triệu USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2016. Trong 3 tháng đầu năm 2017, giá trị nhập khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của các thị trường nhập khẩu chính đều tăng, ngoại trừ thị trường Thái Lan. (Đảng Cộng Sản VN 18/5) đầu trang(
Với nguồn nhân lực và diện tích gần 20.000ha rừng trồng sản xuất, huyện Pác Nặm có nhiều lợi thế để phát triển lĩnh vực công nghiệp chế biến lâm sản. Tuy nhiên hiện nay toàn huyện mới có 3 cơ sở chế biến lâm sản đang hoạt động.
Trong đó có 2 cơ sở ở xã Bộc Bố và 1 cơ sở ở xã Bằng Thành. Các cơ sở chế biến, kinh doanh lâm sản hoạt động đã góp phần tiêu thụ gỗ rừng trồng của người dân, giúp người dân yên tâm mở rộng diện tích trồng rừng hàng năm. Tuy nhiên chỉ với 3 cơ sở chế biến lâm sản hoạt động với công suất hoạt động vài chục mét khối gỗ 1 ngày đêm thì đây là con số rất nhỏ  so với sản lượng gỗ có thể khai thác của toàn huyện. Tình trạng thiếu các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, chế biến lâm sản trên địa bàn ở huyện Pác Nặm đã dẫn tới việc tiêu thụ lâm sản trong vùng gặp khó khăn.
Để ngành công nghiệp chế biến lâm sản thật sự phát triển đúng với tiềm năng và lợi thế, không chỉ cần những chính sách đúng đắn, linh hoạt của các cấp ủy, chính quyền mà còn cần sự quyết tâm, nỗ lực, đồng lòng của người dân và sự kiên trì của các nhà đầu tư. (Đài PTTH Bắc Kạn 22/5) đầu trang(
Chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) giúp đời sống người dân, cải thiện đáng kể; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, tại huyện Tuần Giáo từ năm 2013 đến nay, các chủ rừng thuộc lưu vực sông Mã vẫn chưa nhận được tiền DVMTR.
Huyện Tuần Giáo có 10/19 xã, thị trấn có diện tích rừng thuộc lưu vực sông Mã, với tổng diện tích hơn 8.300ha, được giao cho 69 chủ rừng là cộng đồng, nhóm hộ và 722 hộ dân. Để thực hiện chi trả DVMTR, UBND huyện Tuần Giáo đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chính sách về dịch vụ hữu ích này đến các cấp, ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan. Huyện đã thành lập hội đồng giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, cá nhân; đồng thời tổ chức họp triển khai kế hoạch DVMTR tại các thôn, bản. Hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách chi trả DVMTR đã cơ bản hoàn chỉnh, dựa vào các văn bản đó, các cơ quan chức năng có thể chủ động triển khai chi trả DVMTR cho các chủ rừng. Song đến nay vẫn chưa có chủ rừng nào thuộc lưu vực sông Mã nhận được tiền DVMTR.
Ông Vàng A Mua, Chủ tịch UBND xã Tênh Phông, cho biết: Xã có hơn 2.200ha rừng, giao cho 15 chủ rừng là hộ dân và 3 chủ rừng là cộng đồng bảo vệ, chăm sóc nhưng từ khi giao đất giao rừng (năm 2013) đến nay, người dân vẫn chưa được nhận tiền DVMTR. Xã đã kiến nghị lên huyện nhiều lần đều nhận được trả lời là do nhiều vướng mắc nên chưa chi trả được. Bà con mong cơ quan chức năng sớm triển khai việc chi trả để người dân được hưởng lợi từ rừng và phấn đấu bảo vệ rừng tốt hơn.
Ông Phan Anh Sơn, Phó Phòng Tài chính, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh, cho biết: Công tác giải ngân tiền DVMTR thuộc lưu vực sông Mã trên địa bàn huyện Tuần Giáo từ năm 2013 đến nay chưa được thực hiện. Bởi để có thể chi trả tiền cho người dân, đơn vị phải dựa trên căn cứ rà soát, lập biểu tổng hợp kết quả nghiệm thu diện tích rừng và xác định các chủ rừng của Hạt Kiểm lâm huyện Tuần Giáo để làm cơ sở thanh toán uỷ thác tiền chi trả DVMTR. Tuy nhiên, hiện nay chúng tôi chưa nhận được danh sách nghiệm thu rừng của Hạt Kiểm lâm nên không thể chi trả cho người dân. Dù đã có văn bản gửi huyện và Hạt Kiểm lâm huyện Tuần Giáo khẩn trương rà soát, nghiệm thu diện tích rừng, nhưng đến nay vẫn chưa có thông tin.
Cũng theo ông Sơn, do đơn giá chi trả tiền DVMTR thuộc lưu vực sông Mã quá thấp: năm 2013 là 6.024 đồng/ha; năm 2014 là 5.684 đồng/ha; năm 2015 là 6.594 đồng/ha nên đơn vị chưa thể chi trả cho người dân được, bởi mỗi lần tổ chức chi trả thì kinh phí đi lại rất tốn kém, có những chủ rừng được giao bảo vệ 1ha rừng thì 1 năm chỉ nhận được từ 5 - 6 nghìn đồng, trong khi đó từ nhà ra đến trung tâm xã để nhận tiền mất nửa ngày nên nhiều chủ rừng không muốn đi nhận tiền.
Về vấn đề chậm rà soát, lập biểu tổng hợp kết quả nghiệm thu diện tích rừng và xác định các chủ rừng, ông Đinh Văn Cường, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Tuần Giáo lý giải: “Không phải Hạt không đi rà soát, nghiệm thu diện tích rừng mà do đơn giá chi trả tiền DVMTR thuộc lưu vực sông Mã quá thấp; trong khi đó mức chi trả thuộc lưu vực sông Đà có khi lên đến hơn 300.000 đồng/ha/năm. Chênh lệch quá lớn dẫn đến người dân so bì quyền lợi, nên mỗi khi đi rà soát, nghiệm thu, các chủ rừng thuộc lưu vực sông Mã không ký vào biên bản nghiệm thu rừng”.
Tuy nhiên, tại Điều 3 của Thông tư 20/2012/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 7/5/2012 về hướng dẫn trình tự thủ tục nghiệm thu thanh toán tiền chi trả DVMTR, quy định: “Hạt kiểm lâm có nhiệm vụ hoàn thành việc xác nhận, lập biểu tổng hợp kết quả nghiệm thu bảo vệ rừng chi trả DVMTR, gửi Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng cấp tỉnh làm cơ sở thanh toán ủy thác tiền chi trả DVMTR của năm kế hoạch. Trong trường hợp có kiến nghị của các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và trong trường hợp cần thiết khác thì hạt kiểm lâm chủ trì phối hợp với cơ quan đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra, nghiệm thu...”
Như vậy, trong trường hợp người dân không chấp thuận với đơn giá chi trả tiền DVMTR, thì hạt kiểm lâm hoàn toàn có thể phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra, nghiệm thu để làm cơ sở, căn cứ cho Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng chi trả tiền DVMTR cho các chủ rừng.
Thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, đã có văn bản gửi UBND, hạt kiểm lâm các huyện trong toàn tỉnh rà soát xác định chủ rừng đối với diện tích rừng nằm trong lưu vực chi trả tiền DVMTR có đơn giá chưa đủ 200.000 đồng/ha/năm, gửi về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để làm cơ sở phối hợp với các sở, ban, ngành trình UBND tỉnh cân đối nguồn kinh phí để bổ sung, đảm bảo đơn giá tối thiểu chi trả đến các chủ rừng là 200.000 đồng/ha/năm. Song, do nguồn kinh phí hạn hẹp nên hiện nay UBND tỉnh vẫn chưa cân đối để thực hiện việc chi trả tiền DVMTR theo kết luận của nguyên Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải.
Việc giao khoán rừng cho người dân để chăm sóc, bảo vệ là chính sách đúng đắn, nhằm hạn chế phá rừng, góp phần phát triển rừng bền vững, các cấp, ngành chức năng cần sớm có giải pháp gỡ vướng mắc trong công tác chi trả DVMTR; nhất là điều chỉnh mức chi trả tiền DVMTR đối với những diện tích rừng thuộc lưu vực sông Mã để người dân yên tâm bảo vệ và phát triển rừng. (Báo Điện Biên Phủ 22/5) đầu trang(
Nhiều năm qua, xung quanh Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI- người dân thường gọi là Viện Eakmat) đã xuất hiện hàng chục cơ sở sản xuất giống cây trồng với cái tên đều có chung chữ "Eakmat". Việc này đã khiến nhiều nông dân lầm tưởng giống từ các cơ sở này đều có nguồn gốc từ Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cà phê Eakmat (thuộc WASI).
Từ nhiều năm nay, xung quanh Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), địa chỉ số 53 Nguyễn Lương Bằng, TP.Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk) xuất hiện hàng loạt cơ sở sản xuất cây giống với biển tên đều có chữ "Eakmat".
Theo tìm hiểu của phóng viên, Eakmat vốn là tên địa danh của vùng đất này nhưng hàng chục năm nay, nó đã gắn liền với tên của Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cà phê Eakmat (thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên - WASI) và được hàng triệu nông dân Tây Nguyên biết đến như là một địa chỉ tin cậy để mua giống cây trồng.
Chính vì thế, các cơ sở sản xuất giống tư nhân đều cố tình lấy chữ "Eakmat" để đặt tên cho cơ sở của mình, khiến người dân nhầm tưởng giống của họ đều có nguồn gốc từ Viện Eakmat.
Ông Trần Vinh- Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cà phê Eakmat, cho biết, đơn vị không có bất kỳ đại lý cấp 2 nào mà chỉ có một điểm giao dịch duy nhất ở số 53 Nguyễn Lương Bằng.
Cũng theo ông Vinh, việc sản xuất giống của Trung tâm trải qua quy trình hết sức nghiêm ngặt bằng dây chuyền công nghệ cao có giá trị hàng tỷ đồng. Trước khi xuất bán ra thị trường, cây giống này còn phải qua khâu kiểm định chất lượng một lần nữa nên hoàn toàn sạch bệnh.
Ông Vinh khẳng định, với việc sản xuất thủ công trong điều kiện thiếu an toàn, cơ sở vật chất thiếu thốn, các cơ sở giống cây trồng tư nhân không thể cho ra sản phẩm sạch bệnh, chất lượng. Vì thế người dân cần phải hết sức tỉnh táo khi mua giống về trồng. (Dân Việt 22/5) đầu trang(
Hiện nay, các đơn vị trồng rừng đang tiến hành phát dọn thực bì, chuẩn bị đất để khi mưa xuống sẽ tiến hành trồng rừng năm 2017. Thế nhưng, tại Krông Nô, việc chuẩn bị đất đã gặp không ít khó khăn khi hầu hết diện tích đang bị người dân xâm canh, lấn chiếm để trồng cây nông nghiệp.
Năm 2017, huyện Krông Nô được UBND tỉnh Đắk Nông giao trồng khoảng 1.100 ha diện tích rừng thay thế và tập trung giao cho các đơn vị gồm Công ty TNHH TMDV SXKS Phú Gia Phát, Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Công ty TNHH Bảo Lâm, UBND huyện Krông Nô…
Trong thời gian qua, để có được quỹ đất thực hiện trồng rừng năm 2017 theo kế hoạch đề ra, UBND huyện Krông Nô đã quyết liệt trong công tác chỉ đạo chính quyền cấp xã, đề nghị các ban, ngành, đoàn thể huyện, xã vào cuộc cùng với các đơn vị thực hiện nhiệm vụ trồng rừng, các chủ rừng để tiếp cận người dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục người dân trả lại đất và tham gia trồng rừng.
Tuy nhiên, kết quả tuyên truyền, vận động người dân trả lại đất và tham gia trồng rừng đạt kết quả không cao. Diện tích đất lâm nghiệp các đơn vị đưa vào thực hiện kế hoạch trồng rừng năm 2017 trên địa bàn huyện Krông Nô đều bị người dân lấn, chiếm sản xuất nông nghiệp.
Tại tiểu khu 1260, Công ty TNHH TMDV SXKS Phú Gia Phát đang thực hiện kế hoạch trồng rừng thay thế trên diện tích 375 ha, thuộc xã Buôn Choáh, qua quá trình tuyên truyền, vận động và thực hiện các phương án tiếp cận người có uy tín, trưởng thôn, chức sắc tôn giáo, các ban ngành, đoàn thể từ ngày 17/4 đến nay, khu vực này đã có 102 hộ  trả lại đất với diện tích 228,3 ha.
Tương tự, Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung được tỉnh giao trồng hơn 100 ha tại huyện Krông Nô. Hiện nay, đơn vị đã phối hợp với UBND các xã Quảng Phú, Đắk Nang, Nâm Nung để tổ chức tuyên truyền, vận động người dân trả lại đất và tham gia trồng rừng, đến nay mới chỉ có 6 hộ dân xã Đắk Nang đăng ký trồng rừng với diện tích khoảng 6 ha. Còn Công ty TNHH Bảo Lâm năm 2017 được giao trồng 200 ha rừng diện tích rừng tập trung, đến nay, đơn vị mới vận động được 6 hộ dân tại xã Tân Thành trả lại đất để trồng rừng với diện tích khoảng 8 ha.
Theo kết quả rà soát của huyện Krông Nô, hầu hết diện tích đất lâm nghiệp nằm trong quy hoạch trồng rừng năm nay hiện đang bị người dân xâm canh, lấn chiếm để trồng cây nông nghiệp, do đó việc lấy lại đất để trồng rừng gặp nhiều khó khăn.
Ông Doãn Gia Lộc, Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Krông Nô cho hay: Huyện đã thực hiện các phương án tiếp cận, tuyên truyền, đặc biệt là tiểu khu 1260, nhưng đến thời điểm này số người hợp tác rất ít. Hầu hết diện tích đất rừng bị lấn chiếm không giải phóng mặt bằng được, vận động nhân dân tham gia trồng rừng khó khăn do mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các loại cây trồng, đất người dân lấn chiếm trồng cây rồi, giờ người ta cương quyết giữ. Dân không hợp tác thì không trồng được, nếu có trồng thì dân cũng sẽ nhổ. Do chưa giải quyết được tranh chấp đất đai và chưa có đăng ký hỗ trợ trồng rừng của người dân, Hạt Kiểm lâm huyện, Công ty TNHH Bảo Lâm, hiện nay chưa lập hồ sơ trồng rừng theo quy định. (Báo Đắk Nông 19/5) đầu trang(./.