Xem ngày trước
BẢN TIN TỔNG HỢP
Xem ngày kế tiếp

Ngày 22 tháng 05 năm 2017
CHÍNH SÁCH – CHỈ ĐẠO
TIÊU ĐIỂM
QUẢN LÝ
NHÂN SỰ MỚI
THAM NHŨNG – LÃNG PHÍ
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
KINH TẾ
MÔ HÌNH – KINH NGHIỆM
BÌNH LUẬN – NHẬN ĐỊNH
NHÌN RA THẾ GIỚI

CHÍNH SÁCH – CHỈ ĐẠO
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 62/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản.
Về thủ tục cấp thẻ đấu giá viên, Nghị định quy định: Tổ chức đấu giá tài sản, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng nộp trực tiếp, gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc hình thức phù hợp khác 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp Thẻ đấu giá viên cho đấu giá viên của tổ chức mình đến Sở Tư pháp nơi tổ chức có trụ sở.
Hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị cấp Thẻ đấu giá viên; Bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu Chứng chỉ hành nghề đấu giá của đấu giá viên được đề nghị cấp Thẻ; 01 ảnh màu cỡ 2 cm x 3 cm (ảnh chụp không quá 06 tháng trước ngày nộp ảnh).
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp Thẻ đấu giá viên; trường hợp từ chối phải thông báo lý do bằng văn bản.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Thẻ đấu giá viên, Sở Tư pháp đăng tải danh sách đấu giá viên trên Cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp, đồng thời gửi Bộ Tư pháp.
Bộ Tư pháp cho biết, so với quy định tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP, thủ tục cấp Thẻ đấu giá viên tại Nghị định 62/2017/NĐ-CP đã được đơn giản hóa, giảm bớt một số giấy tờ, chỉ yêu cầu nộp những loại giấy tờ thiết yếu đối với người được cấp Thẻ.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho những trường hợp đấu giá viên bị mất Thẻ đấu giá viên hoặc Thẻ đấu giá viên bị hư hỏng không thể sử dụng được, Nghị định quy định thủ tục cấp lại Thẻ theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, theo đó người đề nghị chỉ cần có giấy đề nghị cấp lại và Sở Tư pháp có trách nhiệm cấp lại Thẻ trong thời hạn 03 ngày làm việc.
Thẻ đấu giá viên chỉ có giá trị khi đấu giá viên hành nghề trong tổ chức đã đề nghị cấp Thẻ. Đấu giá viên chỉ được điều hành cuộc đấu giá sau khi được Sở Tư pháp cấp Thẻ. Người được cấp Thẻ đấu giá viên không được kiêm nhiệm hành nghề công chứng, thừa phát lại. (Hải Quan 19/5) đầu trang(
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 62/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hình thức đấu giá trực tuyến…
Nghị định 62/2017 có hiệu lực từ ngày 1-7 và thay thế Nghị định 17/2010 về bán đấu giá tài sản.
Nghị định 62/2017 yêu cầu người tham gia đấu giá trực tuyến phải tuân thủ quy định của pháp luật về đấu giá tài sản. Bảo mật về tài khoản truy cập, thông tin về người tham gia đấu giá và thông tin khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm tính khách quan, minh bạch, an toàn, an ninh mạng. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản, người tham gia đấu giá và cá nhân, tổ chức có liên quan.
Về trình tự, thủ tục đấu giá trực tuyến, Nghị định 62/2017 quy định tổ chức đấu giá tài sản đăng tải quy chế cuộc đấu giá trên trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến.
Khi đăng ký tham gia đấu giá, người tham gia đấu giá được cấp một tài khoản truy cập; được hướng dẫn về cách sử dụng tài khoản, cách trả giá và các nội dung cần thiết khác trên trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến để thực hiện việc đấu giá trực tuyến.
Người tham gia đấu giá sử dụng tài khoản của mình và thực hiện việc trả giá theo phương thức đấu giá, thời điểm bắt đầu tiến hành đấu giá và thời điểm kết thúc đấu giá, bước giá đã được công bố.
Tại thời điểm kết thúc cuộc đấu giá, đấu giá viên được tổ chức đấu giá tài sản, thành viên được hội đồng đấu giá tài sản, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng phân công chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện cuộc đấu giá trực tuyến (sau đây gọi là bên bán đấu giá) xác định người trúng đấu giá như sau:
Trường hợp việc trả giá được thực hiện bằng phương thức trả giá lên thì người trúng đấu giá là người có mức trả giá cao nhất được hệ thống thông tin đấu giá trực tuyến ghi nhận tại thời điểm kết thúc việc trả giá.
Trường hợp việc trả giá được thực hiện bằng phương thức đặt giá xuống thì người trúng đấu giá là người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm, hoặc giá đã giảm được hệ thống thông tin đấu giá trực tuyến ghi nhận.
Bên bán đấu giá căn cứ kết quả xác định người trúng đấu giá quy định ở trên để công bố người trúng đấu giá trên hệ thống đấu giá trực tuyến ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc.
Kết quả cuộc đấu giá trực tuyến được đăng công khai trên hệ thống đấu giá trực tuyến và được gửi vào địa chỉ điện tử của người tham gia đấu giá ngay sau khi công bố người trúng đấu giá trên hệ thống đấu giá trực tuyến.
Theo các chuyên gia, đấu giá trực tuyến mang lại nhiều tiện lợi như nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo tính khách quan, minh bạch, hạn chế việc thông đồng dìm giá, sai lệch kết quả đấu giá.Đấu giá trực tuyến không ràng buộc về mặt địa lý, những người bán hàng và những người đấu giá có thể tham gia đấu giá từ bất kỳ nơi nào có truy cập Internet.
Đấu giá trực tuyến cho phép có nhiều người bán hàng bán nhiều loại tài sản đồng thời và cho phép hàng ngàn người cùng tham gia trả giá một lúc, qua đó giúp giảm chi phí. Đấu giá trực tuyến không ràng buộc thời gian, việc trả giá có thể thực hiện bất kỳ lúc nào.
Bên cạnh đó, đấu giá trực tuyến tạo thành mạng lưới kinh doanh rộng lớn. Số lượng người tham gia đấu giá đông sẽ khuyến khích có thêm nhiều người bán, ngược lại số lượng người bán tăng sẽ kéo theo số lượng người tham gia đấu giá càng đông. Càng có nhiều hoạt động thì hệ thống càng lớn mạnh và mô hình kinh doanh càng trở nên có giá trị cho những người tham gia. (Pháp Luật TP.HCM 22/5) đầu trang(
Bộ Nội vụ đang dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm bồi thường của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến kinh tế, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp nơi người quản lý doanh nghiệp, người đại diện đang hoặc đã làm việc nhưng chưa đến mức bị truy tố theo quy định của pháp luật.
Theo dự thảo, người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có trách nhiệm bồi thường do hành vi gây thiệt hại. Cụ thể, trường hợp người quản lý doanh nghiệp, người đại diện bị phát hiện có hành vi gây thiệt hại trước khi thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu, thôi việc thì phải bồi thường nhưng vẫn thực hiện thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu, thôi việc; doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính quyền địa phương nơi người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường cho đến khi thu đủ số tiền theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Sau khi đã thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu, thôi việc mới bị phát hiện có hành vi gây thiệt hại thì phải bồi thường; doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính quyền địa phương nơi người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường cho đến khi thu đủ số tiền theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Trường hợp người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại bị phát hiện trước hoặc sau khi doanh nghiệp được chia tách, sáp nhập, hợp nhất thì phải bồi thường; doanh nghiệp kế thừa chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp đó có trách nhiệm tiếp tục thu tiền bồi thường cho đến khi thu đủ số tiền theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Nếu người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại bị phát hiện trước khi doanh nghiệp bị giải thể thì phải bồi thường; cấp có thẩm quyền ra quyết định giải thể doanh nghiệp có trách nhiệm thu tiền bồi thường cho đến khi thu đủ số tiền theo quyết định của cấp có thẩm quyền và phải hoàn thành trước khi doanh nghiệp kết thúc giải thể theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014.
Dự thảo nêu rõ, trường hợp người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì trách nhiệm bồi thường thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Trường hợp thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch họa được cấp có thẩm quyền xác nhận thì người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường; giá trị tài sản bị thiệt hại do doanh nghiệp bị thiệt hại chịu trách nhiệm. (Pháp Luật Và Xã Hội 20/5) đầu trang(
Bộ Giao thông vận tải vừa ban hành Thông tư hướng dẫn một số điều của Nghị định số 70/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ về điều kiện cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải.
Trong đó quy định chi tiết về cầu cảng, xưởng sản xuất, trạm quản lý luồng, trạm điều tiết, phương tiện, trang thiết bị và số lượng hoa tiêu tối thiểu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải.
Cụ thể, đối với cầu cảng, xưởng sản xuất, trang thiết bị và tàu thuyền chuyên dùng của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thiết lập, vận hành, duy trì, bảo trì báo hiệu hàng hải, khu nước, vùng nước, luồng hàng hải công cộng và tuyến hàng hải, Thông tư nêu rõ: Tàu thuyền chuyên dùng có kết cấu và vùng hoạt động phù hợp để phục vụ công tác thiết lập, vận hành, bảo trì, sửa chữa, giám sát hoạt động liên tục của hệ thống báo hiệu hàng hải và được trang bị cần cẩu hoặc cần trục bảo đảm di chuyển, nâng hạ báo hiệu hàng hải, phương tiện, vật tư, máy móc, hàng hóa.
Cầu cảng có đủ khả năng đáp ứng cho tàu thuyền chuyên dùng theo quy định trên ra vào an toàn. Kho bãi sau cảng có diện tích tối thiểu bảo đảm lưu kho hàng hóa bốc dỡ tại cầu cảng và phục vụ thiết lập, vận hành, duy trì, bảo trì báo hiệu hàng hải, khu nước, vùng nước, luồng hàng hải. Xưởng sản xuất, bảo trì báo hiệu hàng hải có tổng diện tích tối thiểu 600 m2. Trang thiết bị tối thiểu phục vụ bảo trì báo hiệu hàng hải gồm: 1 xe tải 12 tấn, 1 xe cẩu 16 tấn, 1 Palăng 10 tấn, 1 búa máy, 1 máy hàn và 1 máy đo chiều dày tôn.
Đối với cầu cảng, xưởng sản xuất và tàu thuyền chuyên dùng của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thiết lập, vận hành, duy trì, bảo trì báo hiệu hàng hải, khu nước, vùng nước, luồng hàng hải chuyên dùng, Thông tư quy định: Cầu cảng, xưởng sản xuất và tàu thuyền chuyên dùng (hoặc hợp đồng thuê tàu thuyền chuyên dùng) của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thiết lập, vận hành, duy trì, bảo trì báo hiệu hàng hải, khu nước, vùng nước, luồng hàng hải chuyên dùng theo quy định trên.
Đối với luồng hàng hải chuyên dùng có chiều dài không quá 5 hải lý và có không quá 10 báo hiệu hàng hải thì doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phải đáp ứng: Có cầu cảng hoặc có hợp đồng thuê cầu cảng có đủ khả năng đáp ứng cho tàu thuyền chuyên dùng theo quy định ra vào an toàn; có xưởng sản xuất hoặc có hợp đồng thuê xưởng sản xuất, bảo trì báo hiệu hàng hải có tổng diện tích tối thiểu 200 m2; có tàu thuyền chuyên dùng (hoặc hợp đồng thuê tàu thuyền chuyên dùng) có vùng hoạt động phù hợp để phục vụ công tác thiết lập, vận hành, bảo trì, sửa chữa, giám sát hoạt động liên tục của hệ thống báo hiệu hàng hải.
Theo Thông tư, số lượng tối thiểu hoa tiêu các hạng được tính căn cứ theo tuyến dẫn tàu, số lượng tàu và trọng tải tàu hoạt động trên tuyến trong 3 năm trước đó; số ngày làm việc tối đa hàng năm của người lao động theo quy định của pháp luật. Số lượng hoa tiêu tối thiểu trên mỗi tuyến phải bảo đảm đáp ứng đầy đủ nhu cầu cung cấp dịch vụ hoa tiêu dẫn tàu 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần và tối thiểu 10% dự trữ trên tổng số hoa tiêu.
Số lượng phương tiện đưa, đón hoa tiêu tối thiểu được tính căn cứ vào chiều dài từ điểm tập kết hoa tiêu đến điểm đón trả hoa tiêu, thời gian phương tiện đưa, đón hoa tiêu, vùng hoạt động và số lượng tàu dẫn hàng năm. Phương tiện đưa đón hoa tiêu phải phù hợp với điều kiện khí tượng thủy văn tại khu vực.
Cục Hàng hải Việt Nam căn cứ quy định trên, công bố số lượng tối thiểu hoa tiêu các hạng của mỗi tuyến dẫn tàu và phương tiện đưa đón hoa tiêu tối thiểu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hoa tiêu hàng hải.
Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2017. (Xây Dựng 19/5) đầu trang(
Bộ LĐ-TB&XH đang lấy ý kiến góp ý về dự thảo Thông tư quy định đào tạo liên thông giữa trình độ trung cấp, cao đẳng trong giáo dục nghề nghiệp. Thông tư khi ra đời sẽ giúp người học có điều kiện nâng cao tay nghề, trình độ bằng cấp và cơ hội việc làm bền vững.
Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, dự thảo thông tư quy định về đào tạo liên thông giữa các trình độ trong giáo dục nghề nghiệp. Đối tượng được áp dụng chính sách là trường trung cấp, trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học có đăng ký đào tạo trình độ cao đẳng (sau đây gọi là trường).
Điều kiện liên thông trình độ trung cấp, dự thảo quy định học viên phải có 1 trong 3 điều kiện sau: Người có chứng chỉ sơ cấp và có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên; Người đã tốt nghiệp trung cấp có nhu cầu học liên thông sang ngành, nghề khác để có bằng tốt nghiệp trung cấp thứ hai cùng nhóm ngành, nghề đào tạo; Người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Với liên thông trình độ cao đẳng, dự thảo quy định cá nhân phải đáp ứng 1 trong các điều kiện: Người có bằng tốt nghiệp trung cấp và bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tương đương; Người có bằng tốt nghiệp trung cấp và bằng tốt nghiệp trung học cơ sở thì phải tích lũy thêm nội dung văn hóa trung học phổ thông theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nếu không đáp ứng 2 điều kiện trên, cá nhân vẫn có thể đăng ký liên thông cao đẳng khi có 1 trong 2 điều kiện, sau: Người đã tốt nghiệp cao đẳng có nhu cầu học liên thông sang ngành, nghề khác để có bằng tốt nghiệp cao đẳng thứ hai cùng nhóm ngành, nghề đào tạo; Người có bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề có nhu cầu học trình độ cao đẳng.
Về thẩm quyền quyết định đào tạo liên thông, dự thảo quy định: Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp quyết định tổ chức đào tạo liên thông giữa các trình độ trong giáo dục nghề nghiệp đối với các trường cao đẳng và cơ sở giáo dục đại học có đẳng ký đào tạo trình độ cao đẳng.
Sở LĐ-TB&XH quyết định tổ chức đào tạo liên thông đối với các trường trung cấp.
Dự thảo cũng quy định thời gian đào tạo liên thông. Theo đó, thời gian đào tạo liên thông được xác định trên cơ sở khối lượng kiến thức, kỹ năng quy định cho từng chương trình, trình độ và phương thức tổ chức đào tạo. Đồng thời, hiệu trưởng nhà trường căn cứ vào chương trình đào tạo liên thông, quy định thời gian đào tạo và công bố công khai đối với các đối tượng tuyển sinh theo đề nghị của Hội đồng đào tạo liên thông. (Dân Trí 22/5) đầu trang(
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang dự thảo Nghị định sửa đổi Điều 12 Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 của Chính phủ quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của cơ quan Bảo hiểm xã hội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, khoản 2 Điều 12 Nghị định số 21/2016/NĐ-CP quy định "Cơ quan bảo hiểm xã hội được trích một phần khoản phạt lãi chậm nộp phát hiện qua thanh tra để hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, tăng cường cơ sở vật chất và khen thưởng, động viên tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Việc trích kinh phí trên thực hiện theo quy định của pháp luật".
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã rà soát các văn bản pháp luật liên quan và thấy rằng nếu trích thêm kinh phí từ khoản phạt lãi chậm nộp phát hiện qua thanh tra thì không phù hợp với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế.
Cụ thể, đối với tiền lãi chậm nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, theo quy định tại khoản 3 Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội, toàn bộ tiền lãi chậm nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp được nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Đối với tiền lãi chậm nộp bảo hiểm y tế, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 toàn bộ tiền lãi chậm nộp bảo hiểm y tế được nộp vào quỹ bảo hiểm y tế.
Căn cứ các quy định nêu trên của Luật, thì toàn bộ số tiền lãi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế được nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ bảo hiểm y tế.
Về kinh phí hoạt động của cơ quan Bảo hiểm xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 15/2016/QĐ-TTg ngày 5/4/2016 về mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế giai đoạn 2016-2018, trong đó: Mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội bằng 2,3% dự toán thu, chi bảo hiểm xã hội (trừ số chi đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng bảo hiểm xã hội), được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; mức chi phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp bằng 2,3% dự toán thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (trừ số chi đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp), được trích từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp; mức chi phí quản lý bảo hiểm y tế bằng 5% dự toán thu tiền đóng bảo hiểm y tế, được trích từ khoản 10% số tiền đóng bảo hiểm y tế dành cho quỹ dự phòng và chi phí quản lý quỹ bảo hiểm y tế.
Mặt khác, thi hành quy định tại khoản 3 Điều 90 luật BHXH năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg ngày 27/11/2015 cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trong đó quy định chi tiết nội dung chi quản lý. Riêng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tại khoản 6 Điều 9 quy định các nội dung chi, gồm: "Chi trang phục thanh tra, chế độ bồi dưỡng đối với người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ do Nhà nước quy định; chi hỗ trợ động viên, khuyến khích tập thể, cá nhân ngoài ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đôn đốc thu hồi đối với các trường hợp trốn đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; chi phí phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và các hoạt động phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, giám sát gồm: Hỗ trợ công tác phối hợp chỉ đạo, chế độ công tác phí, làm đêm, thêm giờ, chi phí xăng xe hoặc thuê phương tiện phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát".
Theo đó, nội dung chi phí quản lý và mức chi quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại các văn bản nêu trên về cơ bản đã đầy đủ các hoạt động, trong đó có chi phí cho các hoạt động thanh tra về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của cơ quan BHXH.
Chính vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thấy cần thiết đề nghị Chính phủ cho xây dựng  Nghị định sửa đổi Điều 12 Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế của cơ quan Bảo hiểm xã hội.
Cụ thể, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất: Kinh phí hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế được bố trí trong dự toán chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. (Báo Chính Phủ 19/5) đầu trang(

TIÊU ĐIỂM
Sáng nay 22/5, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV khai mạc tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội (Hà Nội). Theo dự kiến, kỳ họp sẽ kéo dài 22,5 ngày, từ 22/5 đến 21/6. Tại kỳ họp này, lần đầu tiên, chất vấn và trả lời chất vấn sẽ tăng từ 2,5 ngày lên 3 ngày.
Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV được Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh và truyền hình trực tiếp để cử tri và đông đảo nhân dân cả nước cùng theo dõi.
Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV sẽ xem xét thông qua 13 dự án luật, 5 dự thảo Nghị quyết và cho ý kiến về 5 dự án luật khác.
Các dự án luật được Quốc hội xem xét, thông qua, gồm: Luật đường sắt (sửa đổi); Luật quản lý ngoại thương; Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (sửa đổi); Luật thủy lợi; Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi); Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi); Luật cảnh vệ; Luật du lịch (sửa đổi); Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi); Luật quy hoạch; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13.
Các nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua, gồm: Nghị quyết về thi hành Bộ luật hình sự; Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018; Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Nghị quyết phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu của đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào; Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Các dự án luật được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, gồm: Luật quản lý nợ công (sửa đổi); Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi); Luật thủy sản (sửa đổi); Luật tố cáo (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng.
Quốc hội dành khoảng 6,5 ngày để xem xét, thảo luận và quyết định về các vấn đề: Các báo cáo của Chính phủ về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2016; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2017;  Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2015.
Quốc hội cũng cho ý kiến về việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành Tiểu dự án để triển khai Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành; Quốc hội giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2016. (Tin Tức 22/5) đầu trang(

QUẢN LÝ
Công trình xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội theo quy định của pháp luật không chịu thuế GTGT.
Thủ tướng Chính phủ trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội Y Khút Niê - Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk về việc các trường hợp xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết vẫn phải nộp thuế xây dựng nhà ở tư nhân.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ trả lời như sau: Khoản 12 Điều 5 Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 3/6/2008 quy định về đối tượng không chịu thuế là hoạt động “Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội”.
Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế GTGT quy định đối tượng không chịu thuế “Đối với hoạt động duy tu, sửa chữa, xây dựng các công trình quy định tại Khoản 12 Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng nếu có sử dụng nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn đóng góp của nhân dân (bao gồm cả vốn đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân), vốn viện trợ nhân đạo mà nguồn vốn khác không vượt quá 50% tổng số vốn sử dụng cho công trình thì đối tượng không chịu thuế là toàn bộ giá trị công trình.
Đối tượng chính sách xã hội bao gồm: Người có công theo quy định của pháp luật về người có công; đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp từ ngân sách nhà nước; người thuộc hộ nghèo, cận nghèo và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ các quy định trên đây thì hoạt động xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội theo quy định của pháp luật bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân (bao gồm cả vốn đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân), vốn viện trợ nhân đạo và trường hợp có sử dụng nguồn vốn khác ngoài vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo mà nguồn vốn khác không vượt quá 50% tổng số vốn sử dụng cho công trình thì toàn bộ giá trị công trình thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Về thuế TNDN, tại điểm n khoản 5 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013 sửa đổi, bổ sung Điều 9 của Luật thuế TNDN quy định về các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế là “Khoản tài trợ, trừ khoản tài trợ cho giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, khắc phục hậu quả thiên tai, làm nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa, nhà cho đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật, khoản tài trợ theo chương trình của Nhà nước dành cho địa phương thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn".
Căn cứ quy định trên đây thì trường hợp doanh nghiệp có các khoản chi tài trợ làm nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa, nhà cho các đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
Như vậy, đối với công trình xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội theo quy định của pháp luật nêu trên thì toàn bộ giá trị công trình thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, doanh nghiệp thực hiện chi tài trợ cho các công trình này được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN theo quy định. (Đài Tiếng Nói Việt Nam 20/5) đầu trang(
Việc chia sẻ lợi ích từ sử dụng nguồn gen phải đảm bảo công bằng, hợp lý giữa các bên có liên quan và góp phần quản lý hiệu quả tài nguyên sinh học, thúc đẩy các quá trình nghiên cứu khoa học và thương mại hóa nguồn gen.
Nghị định số 59/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc chia sẻ lợi ích từ sử dụng nguồn gen phải đảm bảo công bằng, hợp lý giữa các bên có liên quan và góp phần quản lý hiệu quả tài nguyên sinh học, thúc đẩy các quá trình nghiên cứu khoa học và thương mại hóa nguồn gen, chú trọng đến vai trò của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền.
Nghị định quy định rõ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen bao gồm lợi ích bằng tiền hoặc lợi ích không bằng tiền.
Lợi ích bằng tiền gồm: Tiền thu thập mẫu vật di truyền; tiền bản quyền; tiền nhượng quyền thương mại; các khoản tiền thanh toán một lần hoặc theo đợt theo thỏa thuận; các lợi ích bằng tiền khác phát sinh trong quá trình sử dụng nguồn gen.
Lợi ích không bằng tiền gồm: Chia sẻ kết quả nghiên cứu; quyền được tham gia hoạt động hợp tác nghiên cứu, phát triển, sản xuất các sản phẩm thương mại; quyền được tiếp cận với thông tin khoa học, kỹ thuật liên quan; chuyển giao công nghệ cho Bên cung cấp nguồn gen; đào tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển nguồn gen; quyền sở hữu trí tuệ chung tương ứng với tỷ lệ đóng góp đối với kết quả sáng tạo trên cơ sở tiếp cận nguồn gen; các lợi ích không bằng tiền khác.
Nghị định quy định tỷ lệ chia sẻ lợi ích bằng tiền đối với sản phẩm được tạo ra từ quá trình sử dụng nguồn gen không thấp hơn 1% tổng doanh thu hàng năm của sản phẩm đó.
Tỷ lệ chia sẻ lợi ích bằng tiền thu được từ việc chuyển giao nguồn gen, dẫn xuất của nguồn gen; sử dụng quyền sở hữu trí tuệ đối với kết quả sáng tạo từ việc sử dụng nguồn gen phải đảm bảo cho Bên cung cấp không thấp hơn 2% tổng giá trị chuyển giao hoặc tổng tiền thu được từ việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng lợi ích bằng tiền từ việc tiếp cận, sử dụng nguồn gen được chia sẻ cho các bên liên quan như sau: Bên cung cấp là Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu bảo tồn, Chủ cơ sở lưu giữ, bảo quản nguồn gen thuộc nhà nước quản lý, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, cơ sở nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được nhà nước giao quản lý được chia sẻ 30% lợi ích bằng tiền theo quy định trên; 70% lợi ích bằng tiền thu được còn lại nộp vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho hoạt động bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Còn Bên cung cấp là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen được chia sẻ 50% lợi ích bằng tiền được quy định trên; 50% lợi ích bằng tiền thu được còn lại nộp vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho hoạt động bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Việc chia sẻ lợi ích không bằng tiền phát sinh từ hoạt động sử dụng nguồn gen do các bên thỏa thuận và được ghi nhận tại Hợp đồng.
Các đối tượng được chia sẻ lợi ích không bằng tiền gồm: Bên cung cấp, đối tác trong nước của Bên tiếp cận là tổ chức nước ngoài và các tổ chức, cá nhân liên quan khác.
Khi công bố các kết quả nghiên cứu khoa học hoặc đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với kết quả sáng tạo từ sử dụng nguồn gen, các tổ chức, cá nhân phải ghi rõ nguồn gốc, xuất xứ của nguồn gen đã tiếp cận. (Báo Chính Phủ 19/5) đầu trang(
Thủ tướng Chính phủ vừa giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương (NSTƯ) năm 2017 (đợt 2). Cụ thể, Thủ tướng giao các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở T.Ư và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư kế hoạch đầu tư vốn NSTƯ năm 2017 (đợt 2) và danh mục dự án sử dụng vốn đầu tư nguồn NSTƯ năm 2017 (đợt 2) bao gồm số vốn thu hồi các khoản vốn ứng trước kế hoạch. Trong đó, giao kế hoạch vốn đầu tư NSTƯ năm 2017 (đợt 2) cho bộ, ngành T.Ư 2.980,337 tỷ đồng, các địa phương 11.024,396 tỷ đồng.
Thủ tướng giao Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư giao các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở T.Ư và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư chi tiết danh mục và mức vốn kế hoạch NSTƯ năm 2017 (đợt 2) của từng dự án theo ngành, lĩnh vực, chương trình; bao gồm số vốn thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản, số vốn thu hồi các khoản vốn ứng trước nguồn NSTƯ theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ… (Nhân Dân 22/5) đầu trang(
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa có ý kiến về việc nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải.
Xét đề nghị của Bộ Giao thông vận tải về việc triển khai thực hiện hoạt động nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải Hải Phòng và Sài Gòn – Vũng Tàu trong năm 2017, Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chủ động chỉ đạo tổ chức hoạt động nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải bảo đảm điều kiện an toàn cho hoạt động hàng hải theo quy định, chống thất thoát, lãng phí và phát sinh tiêu cực trong quá trình thực hiện. (Báo Chính Phủ 19/5) đầu trang(

NHÂN SỰ MỚI
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị, Hội đồng thành viên (HĐTV) Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vừa quyết định điều động, bổ nhiệm nhân sự một số cơ quan, đơn vị trực thuộc.
Tập đoàn PVN: Ngày 19/5, Thành viên phụ trách HĐTV, Tổng giám đốc PVN Nguyễn Vũ Trường Sơn đã trao quyết định ông Nguyễn Quỳnh Lâm, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn kiêm Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) thôi giữ chức Chủ tịch HĐTV PVEP để tập trung thực hiện nhiệm vụ Phó Tổng giám đốc Tập đoàn.
Đồng thời, Tổng giám đốc PVN trao quyết định của HĐTV PVN bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Quế, Tổng giám đốc Công ty Liên doanh Điều hành Cửu Long (Cửu Long JOC), giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Thành viên PVEP.
Hà Giang: Ngày 19/5, ông Thào Hồng Sơn, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Giang đã trao Quyết định số 809 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nguyễn Hồng Hải thôi tham gia Ban Cấp hành, Ban Thường vụ, thôi giữ chức Bí thư Huyện ủy Quản Bạ nhiệm kỳ 2015 - 2020, để bồ nhiệm giữ chức Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch kể từ ngày 11/5/2017.
Đồng thời trao Quyết định số 810 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động và chỉ định Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Trưởng Ban Pháp chế - HĐND tỉnh Hoàng Đình Phới, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức Bí thư Huyện ủy Quản Bạ, nhiệm kỳ 2015 - 2020 kể từ ngày 11/4/2017
Trước đó, chiều 18/5, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH khóa XIV tỉnh Hà Giang Vương Ngọc Hà đã trao quyết định của Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội về việc bổ nhiệm ông Đỗ Văn Hùng, Phó Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang giữ chức vụ Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang trực thuộc Văn phòng Quốc hội từ ngày 20/4/2017. Thời hạn bổ nhiệm là 5 năm.
Quảng Trị: Cùng ngày 18/5, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Nguyễn Đức Chính đã quyết định bổ nhiệm lại ông Trần Văn Thành, sinh ngày 22/9/1959 giữ chức vụ Giám đốc Sở Y tế kể từ ngày 28/3/2017 đến khi đủ tuổi nghỉ hưu; bổ nhiệm lại ông Trần Quốc Dính, sinh ngày 26/4/1959, giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Y tế Quảng Trị kể từ ngày 28/3/2017 đến khi đủ tuổi nghỉ hưu; bổ nhiệm lại ông Trần Quốc Tuấn, giữ chức vụ Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Quảng Trị kể từ ngày 2/4/2017. Thời hạn bổ nhiệm ông Tuấn là 5 năm. (Báo Chính Phủ 20/5) đầu trang(

THAM NHŨNG – LÃNG PHÍ
Nhiều chuyên gia pháp lý khẳng định các quy định về việc kê khai tài sản hay kiểm tra việc kê khai tài sản như hiện nay chưa thực sự có tác dụng cao trong phòng chống tham nhũng
Đây là ý kiến chung của hàng chục chuyên gia về pháp lý, các luật sư và luật gia tại TP HCM bày tỏ tại buổi tọa đàm góp ý cho dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN- sửa đổi) do Trung tâm Tư vấn pháp luật tại TP HCM (Trung ương Hội Luật gia Việt Nam) và chi hội luật gia tại trung tâm này tổ chức vào sáng 21-5.
Dẫn việc nhiều nước có cơ quan chuyên trách chống TN trực thuộc chính phủ, chẳng hạn Singapore có Cục Điều tra TN (CPIB) trực thuộc thủ tướng chính phủ và chỉ có 75 nhân viên nhưng làm được khối lượng công việc rất lớn, luật gia Trần Đình Thu đề nghị ban soạn thảo cần nghiên cứu vấn đề này vì luật về PCTN của chúng ta không tạo ra được một cơ quan chuyên trách chống TN mà tất cả đều kiêm nhiệm.
"Đây là một trong những lỗ hổng lớn nhất của luật này. Dự thảo lần này không có tính đột phá so với luật cũ là có nhiều lý do, trong đó có lý do thiếu vắng cơ quan chuyên trách về PCTN. Hiện nay, các cơ quan trong lĩnh vực chống TN đều kiêm nhiệm" - ông Thu nói và phân tích thêm cơ quan chuyên trách mà nằm trong quá nhiều cơ quan khác nhau thì thực tế là rất yếu. Cho nên, muốn chống TN chỉ cần một cơ quan chuyên trách độc lập, được thành lập bởi Luật PCTN, trực thuộc Chính phủ, có quyền và nghĩa vụ điều trần trước Quốc hội… mới đủ nhiệm vụ và quyền hạn chống TN. Ở các địa phương sẽ có các văn phòng của cơ quan này.
Theo ThS Bùi Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế (Hội Luật gia Việt Nam), nếu phòng cháy hay phòng bệnh đều quan trọng hơn chữa cháy hay chữa bệnh thì việc phòng ngừa TN cũng quan trọng và cần thiết hơn chống TN. Trong khi đó, luật của ta chỉ nhấn mạnh đến chống TN mà ít nói đến phòng ngừa. Nhìn ra các nước trên thế giới hay khu vực (như Thụy Sĩ, Singapore…), luật của họ coi việc quy định sao cho các quan chức "không được, không dám và không thể" TN, tức là phòng ngừa chứ không chỉ đặt ra những luật lệ để xử lý khi TN xảy ra rồi.
Dẫn minh họa từ nhiều vụ án về TN mà dư luận quan tâm, ThS Bùi Việt Cường nhấn mạnh dù so với luật cũ thì dự thảo đã có thêm một chương mới là chương III "Minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập" nhưng điều quan trọng là phải làm sao để việc kê khai và kiểm tra kê khai không chỉ là hình thức. Trong thực tế có chuyện cơ quan chủ quản chỉ kiểm tra chiếu lệ cho "đúng quy trình". Điều này làm cho việc thực thi Luật PCTN trở thành hình thức, kém thuyết phục, giảm sút niềm tin của người dân vào quyết tâm của Đảng, nhà nước.
Nhìn nhận thêm về khía cạnh này, luật gia Trần Đình Dũng nhấn mạnh: "Dự thảo đã đưa luôn cả việc kê khai tài sản của vợ/chồng và con chưa thành niên của chủ thể. Đây là điểm tiến bộ so với các luật cũ. Tuy nhiên, hai nơi cất giấu tài sản này không được chủ thể ưu tiên do nguy cơ bị dư luận soi mói rất cao, nhất là trong bối cảnh mạng xã hội gây tác động lớn lên công luận như hiện nay. Chủ thể vẫn hoàn toàn có thể giấu tài sản bằng việc để con đã thành niên hoặc cha mẹ đứng tên".
Khẳng định việc kê khai tài sản và minh bạch tài sản hiện nay chỉ mới ngăn chặn được đối tượng TN mua sắm tài sản thuộc các loại phải khai báo chứ ít có tác dụng ngăn chặn TN, luật gia Trần Đình Thu khẳng định: "Chẳng có ai TN mà cất giữ tài sản TN bằng cách mua nhà cửa, đất đai, xe cộ, cổ phiếu, mở tài khoản ngân hàng rồi đứng tên mình hoặc người thân vì sẽ dễ bị phát hiện. Trong 10 năm thực hiện Luật PCTN 2005, chúng ta chưa hề phát hiện TN thông qua cách làm minh bạch tài sản. Dĩ nhiên, vẫn phải minh bạch tài sản để quản lý nhưng cứ tin chắc vào đó là đủ rồi thì sẽ thiếu sót lớn".
Nhiều luật gia cũng bày tỏ thống nhất cao với việc dự thảo còn hạn chế việc giám sát của Quốc hội, HĐND, MTTQ trong công tác PCTN nhìn từ góc độ giám sát tài sản. Theo đó, dự thảo quy định người được biết thông tin bản kê khai tài sản của đối tượng phải kê khai chỉ gồm: lãnh đạo cơ quan người kê khai, đơn vị phụ trách công tác cán bộ (vụ, phòng tổ chức cán bộ), hội đồng bầu cử quốc gia và ủy ban bầu cử các cấp.
Tuy nhiên, hội đồng bầu cử quốc gia và ủy ban bầu cử các cấp chỉ được lập ra vào thời điểm bầu cử (5 năm/lần) và giải tán khi bầu cử xong, trong khi việc PCTN cần phải thường xuyên; lãnh đạo cơ quan và bộ phận tổ chức của cơ quan thì vẫn khó vì TN luôn gắn với người có chức vụ và hiếm khi việc TN xảy ra đơn lẻ. Do đó, thông tin về tài sản khi có sự tăng lên bất thường của người kê khai và công tác xác minh rất dễ bị che giấu bởi sự bao che lẫn nhau vì "lợi ích nhóm".
"Thật lạ khi Luật PCTN của chúng ta không có điều nào liên quan đến vấn đề tài chính cho công tác PCTN. Chống TN không chỉ khó mà còn rất tốn kém nhưng vì chúng ta dùng các lực lượng kiêm nhiệm nên có vẻ như không cần tiền cho hoạt động chống TN. Chi tiết này cho thấy tính nghiệp dư trong công tác này. Vì thế, dự thảo cần có một điều luật về việc cấp ngân sách cho hoạt động chống TN. Sau đó, tùy tình hình chi tiêu thế nào thì văn bản dưới luật sẽ quy định tiếp. Không có tiền là không chống TN hiệu quả" -luật gia Trần Đình Thu khẳng định. (Người Lao Động 21/5) đầu trang(
Với mục đích sắp xếp các đơn vị có nhiệm vụ tương đồng để thuận lợi quản lý và tinh giản biên chế, Bộ KH&ĐT sáp nhập Vụ hợp tác Lào - Campuchia về Vụ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, việc sáp nhập theo hình thức cơ học, khiến vụ này lạm phát chức danh vụ trưởng, vụ phó. Trong khi đó, lãnh đạo Bộ cho biết chưa thể tìm ra giải pháp bởi đây là lịch sử để lại nên vẫn giữ nguyên bộ máy cồng kềnh với 2 vụ trưởng, 5 vụ phó.
Theo thông tin  có được, hiện Vụ Kinh tế đối ngoại gồm 2 vụ trưởng: ông Lưu Quang Khánh (phụ trách chung toàn vụ) và ông Trần Nhật Thành, phụ trách Ban hợp tác với Lào và Campuchia. Ngoài ra, vụ này có 5 vụ phó gồm các ông, bà: Lê Việt Anh, Cao Mạnh Cường, Lê Minh Điển, Nguyễn Yến Hải, Nguyễn Thị Thanh Phương.
Trước đó, vụ này có thêm 1 vụ trưởng và 1 vụ phó vừa điều chuyển công tác đến đơn vị khác. Ông Trần Quốc Phương, Vụ trưởng kinh tế đối ngoại, kiêm Điều phối viên quốc gia về hợp tác tiểu vùng Mê Kông, vào cuối tháng 3/2017, được điều chuyển làm Vụ trưởng Tổng hợp kinh tế quốc dân. Vụ phó Trần Xuân Tiến chuyển công tác khỏi Vụ Kinh tế Đối ngoại vào cuối 2016.
Trao đổi với PV qua điện thoại, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết, Vụ kinh tế đối ngoại có số lượng vụ trưởng, vụ phó đông như vậy là do “lịch sử để lại”. Để tinh gọn đầu mối quản lý và tinh giản biên chế, Vụ Hợp tác Lào và Campuchia đã sáp nhập vào Vụ Kinh tế đối ngoại.
“Việc sáp nhập 2 vụ đã khiến số lượng vụ trưởng, vụ phó đông như vậy. Tinh thần của Bộ KH&ĐT là phải sắp xếp các chức danh vụ trưởng, vụ phó cho phù hợp nhưng chưa xử lý xong. Việc sắp xếp không đơn giản vì liên quan đến đào tạo, năng lực, sở trường, sở đoản của từng cá nhân. Những cục, vụ khác đã đầy đủ chức danh, nên không thể điều chuyển sang các cục, vụ khác. Hơn nữa, họ không bị kỷ luật nên không thể cắt chức vụ trưởng, vụ phó”, ông Dũng cho biết.
Được biết, theo Quyết định số 494/QĐ-BKH ngày 14/4/2009 của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, Vụ kinh tế đối ngoại giúp bộ trưởng thực hiện chức năng tổng hợp kinh tế đối ngoại, quản lý nhà nước về nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); viện trợ phi chính phủ nước ngoài và thực hiện nhiệm vụ hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia; hội nhập kinh tế quốc tế; hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng thuộc phạm vi quản lý của bộ.
Vụ có 7 phòng chức năng (gồm: phòng tổng hợp; Châu Á, Châu Mỹ và hội nhập kinh tế quốc tế; Nhật Bản và Đông Bắc Á; Châu Âu và Châu Phi; Các tổ chức quốc tế và phi chính phủ nước ngoài; Các tổ chức tài chính quốc tế) và Ban hợp tác với Lào và Campuchia.
Trong Điều 3 của quyết định trên, Vụ Kinh tế đối ngoại có vụ trưởng, một số vụ phó làm việc theo chế độ chuyên viên. Biên chế của Vụ do Bộ trưởng Bộ KH&ĐT quyết định riêng. Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân của điều này xuất phát từ việc vụ có quá nhiều chức danh phó vụ trưởng nên dù mang hàm lãnh đạo, vẫn phải thực hiện công tác chuyên môn của chuyên viên.
Đánh giá về số lượng vụ trưởng, vụ phó nhiều như trên, ông Nguyễn Đình Hương, nguyên Phó trưởng Ban tổ chức Trung ương cho rằng, điều này khiến bộ máy quản lý cồng kềnh, gây lãng phí. Về việc dồn 2 vụ thành một để tránh chồng chéo, hiệu quả tốt hơn thì nên làm.
“Nếu nhập 2 vụ mà đem lại hiệu quả kinh tế cao thì công tác cán bộ phải hi sinh. Trong 2 vụ trưởng lấy 1 người, trong các vụ phó cũng chọn như vậy. Quy trình lựa chọn sẽ tiến hành tối đa 1 năm sau khi sáp nhập 2 vụ để mỗi cá nhân có thời gian làm việc, cống hiến. Nếu sau 1 năm không đánh giá, lựa chọn cán bộ là chậm trễ, trách nhiệm thuộc về Bộ trưởng KH&ĐT”, ông Hương nói.
Theo ông Hương, việc lấy phiếu dân chủ với quy trình, chỉ số đánh giá tìm người xuất sắc, có kinh nghiệm, công bằng với tất cả thành viên chứ không chọn theo cảm tính. Những thành viên còn lại cắt hàm vụ phó và cho hưởng chế độ vụ phó để giải quyết thỏa đáng về quyền lợi bởi họ không có tội thì không thể kỷ luật.
“Việc sáp nhập các đơn vị sẽ thừa cán bộ thì phải chọn con chim đầu đàn. Các quy định pháp luật sẽ dần dần khắc phục được điều này chứ không thể đề bạt cho có chức danh rồi không thể cắt chức danh vì không vi phạm”, ông Hương đánh giá. (Tiền Phong 22/5) đầu trang(
Kiểm toán Nhà nước cho biết, đây chính là dự án nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 và cơ sở hạ tầng Trung tâm Điện lực Duyên Hải.
Kiểm toán Nhà nước (KTNN) vừa gửi báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2016 đến Quốc hội. Kết quả kiểm toán cho thấy, ngoài các hạn chế sai sót trong quá trình đầu tư, công tác quản lý các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BT và các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nguồn vốn khác còn bộc lộ nhược điểm, sai phạm, tùy tiện, lãng phí, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.
Cụ thể, đối với các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, KTNN cho biết vẫn còn tình trạng chưa có tiêu chí lựa chọn dự án được đầu tư theo hình thức BOT. Hầu hết các dự án BOT áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư và chỉ định nhà thầu thi công mà không thực hiện đấu thầu.
Công tác xác định tổng mức đầu tư của dự án còn sai sót. Có dự án xác định tổng vốn đầu tư của dự án bao gồm cả phần thuế giá trị gia tăng được Nhà nước hoàn lại; xác định lưu lượng phương tiện giao thông không phù hợp với thực tế.
"Nhiều đơn vị dựa trên số liệu thống kê của tư vấn khảo sát trong 2 đến 3 ngày để suy ra lưu lượng phương tiện 365 ngày hoặc căn cứ kết quả khảo sát lưu lượng phương tiện của Tổng cục đường bộ Việt Nam đã cũ để nội suy", báo cáo của KTNN cho biết.
Công tác nghiệm thu, thanh toán tại nhiều dự án BOT còn sai sót. Bằng chứng là kết quả kiểm toán các dự án BOT trong năm 2016 đã giảm trừ chi phí đầu tư thực hiện 1.150,5 tỷ đồng.
Việc góp vốn chủ sở hữu tại một số dự án BOT chưa đúng tỷ lệ cam kết; tiến độ thi công chưa đảm bảo; chưa có cơ chế kiểm tra, kiểm soát quá trình thu phí để xác định lưu lượng phương tiện giao thông thực tế qua trạm thu phí. Khoảng cách một số trạm thu phí không đảm bảo quy định tối thiểu 70 km.
Qua kiểm toán, KTNN đã kiến nghị giảm thời gian thu phí hoàn vốn của 27 dự án được kiểm toán (năm 2016 là 21 dự án) so với phương án tài chính ban đầu 107,4 năm, trong đó dự án giảm nhiều nhất là 13 năm 1 tháng, 12 ngày.
Cụ thể, dự án công trình mở rộng QL1 đoạn Km 1488-Km1525, tỉnh Khánh Hòa giảm 13 năm 1 tháng 12 ngày; dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí Minh (Quốc lộ 14) đoạn Km1793+600 (Km734+600 QL14) đến Km1824+00 (Km1765+00 QL14), tỉnh Đắk Nông giảm 12 năm 3 tháng 22 ngày.
Một số dự án khác như dự án xây dựng đường nối từ đường Nguyễn Duy Trinh vào khu công nghiệp Phú Hữu, quận 9 (Tổng công ty Xi măng Việt Nam) giảm 11 năm; dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng đường HCM (QL14) đoạn từ cầu 38 đến thị xã Đồng Xoài (Km921+025-Km926+331 QL 14), tỉnh Bình Phước giảm 7 năm 9 tháng 21 ngày.
Dự án công trình cải tạo, nâng cấp QL19 đoạn Km17+027-Km50+00 trên địa phận tỉnh Bình Định và đoạn Km108+00-Km131+300 trên địa phận tỉnh Gia Lai giảm 7 năm 6 tháng 27 ngày. Dự án nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí Minh (Quốc lộ 14) đoạn Pleiku Km1610 đến cầu 110(Km1667+570), tỉnh Gia Lai giảm 7 năm 2 tháng 27 ngày. Dự án nâng cấp, mở rộng đường HCM (QL 14) đoạn Km 1738+148-Km1763+610, tỉnh Đắk Lắk giảm 6 năm 10 tháng 22 ngày. Dự án đầu tư xây dựng Cầu Cổ Chiên giảm 5 năm 24 ngày...
Ngoài ra, KTNN cũng chỉ ra những tồn tại đối với những dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT đó là giao dự án cho nhà đầu tư, chỉ định nhà đầu tư đàm phán trực tiếp hợp đồng dự án không đúng quy định. Có trường hợp ký hợp đồng trước khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Hợp đồng BT chưa quy định cụ thể việc thanh toán khi nhà đầu tư nhận được tiền hoàn trả, cơ cấu vốn đầu tư trong hợp đồng không đảm bảo quy định. Xác định giá trị hợp đồng còn sai sót; có dự án không lập phương án tài chính.
Thậm chí có dự án nhà đầu tư tính chi phí lãi vay không phù hợp với quy định 24,4 triệu USD (tương đương 534,6 tỷ đồng). Công tác lập dự án, đền bù giải phóng mặt bằng, thiết kế - dự toán, nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn thành tại nhiều dự án còn nhiều sai sót; góp vốn chủ sở hữu không đạt yêu cầu...
Đối với những dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nguồn vốn khác, có dự án chưa bố trí đầy đủ, kịp thời theo cơ cấu vốn trong quyết định đầu tư được phê duyệt, đặc biệt là vốn đối ứng, vốn chủ sở hữu làm tăng chi phí đầu tư. Có dự án chưa chuyển đổi chủ thể hợp đồng vay khi chuyển đổi chủ đầu tư theo quy định làm tăng chi phí đầu tư; sử dụng vốn của dự án sai mục đích, không đúng đối tượng hoặc chưa phù hợp với điều khoản hợp đồng; vi phạm quy định của nhà tài trợ dẫn đến việc dừng cấp vốn gây lãng phí nguồn vốn đã đầu tư.
Cá biệt, có dự án vừa có bảo lãnh của Chính phủ, vừa phải mua bảo hiểm khoản vay với mức phí 5% (tính trên tổng nợ gốc và lãi phải trả) và việc thanh toán phí bảo hiểm được thực hiện 1 lần không theo quá trình giải ngân thực tế làm lãng phí phí bảo hiểm 3,3 triệu USD. Đây chính là dự án nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 và cơ sở hạ tầng Trung tâm Điện lực Duyên Hải. Ngoài ra, tỷ lệ giải ngân của các dự án còn thấp; công tác ghi thu - ghi chi chưa kịp thời, số liệu ghi thu - ghi chi chưa chính xác... (Thời Báo Doanh Nhân 22/5) đầu trang(

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Từ tháng 12/2016, hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 lĩnh vực tư pháp đã được triển khai đồng bộ tại 584 xã, phường, thị trấn trên toàn địa bàn TP Hà Nội. Sau nửa năm, các dịch vụ này đã và đang ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng trong việc công khai hóa, minh bạch hóa thủ tục hành chính (TTHC) và giúp tiết kiệm tối đa chi phí, thời gian đi lại nên đã nhận được sự đón nhận rộng rãi của người dân.
Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 cấp xã, phường trong lĩnh vực tư pháp được coi là bước đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát, đơn giản hóa các thủ tục, tạo thuận lợi và giảm tối đa các chi phí cho công dân và doanh nghiệp.
Với các thiết bị có kết nối internet, công dân có thể truy cập vào trang egov.hanoi.gov.vn để đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, trích lục hộ tịch, giám hộ và xác nhận tình trạng hôn nhân. Khi có vướng mắc, người dân sẽ được giải đáp thông qua hệ thống tổng đài tin nhắn, hỗ trợ kỹ thuật và chỉ mất một lần duy nhất trực tiếp đến bộ phận một cửa để thanh toán lệ phí và nhận kết quả.
Theo ghi nhận tại UBND phường Ngọc Khánh, hầu hết các công dân đến phường để thực hiện dịch vụ trực tuyến là người lớn tuổi nên phường đã dán các poster, tờ hướng dẫn từng thủ tục một cách cụ thể, bài bản và bố trí cán bộ hướng dẫn trực tiếp cho người dân. Tính từ đầu năm 2017, phường đã tiếp nhận hơn 200 hồ sơ trực tuyến, trong đó nhiều nhất là đăng ký khai sinh và xác nhận tình trạng hôn nhân.
Chị Phạm Thị Bình, công chức tư pháp - hộ tịch UBND phường Ngọc Khánh chia sẻ, lúc đầu người dân, nhất là người cao tuổi còn bỡ ngỡ với các dịch vụ này vì vẫn quen cách thức truyền thống là đến nộp trực tiếp, được cán bộ hướng dẫn ghi chép từng từ để không xảy ra sai sót.
Tuy nhiên, sau khi được giới thiệu, hướng dẫn về các dịch vụ trực tuyến thì công dân đã nhận ra được nhiều tiện ích nên đã sử dụng rộng rãi hơn. Song, vẫn còn tình trạng một số người do tự tìm hiểu hoặc không đọc kỹ hướng dẫn nên đã thao tác nhầm như đăng ký kết hôn phải chọn phần cấp phường thì lại chọn sang cấp quận hoặc ấn nhầm sang trích lục hộ tịch khiến hồ sơ thất lạc, phải đăng ký lại từ đầu.
Không bỏ qua tiện lợi của các dịch vụ này, anh Nguyễn Phi Hùng (ở phường Yên Phụ, quận Tây Hồ) đã sử dụng điện thoại thông minh có kết nối internet truy cập vào trang egov.hanoi.gov.vn để làm thủ tục đăng ký khai sinh trực tuyến cho con. Anh cảm thấy rất hài lòng với dịch vụ này bởi thao tác đơn giản, dễ thực hiện và ngay khi thực hiện thành công sẽ có phản hồi gửi về hộp thư điện tử của anh, báo ngày hẹn trả kết quả. Do hay phải đi công tác, không thể trực tiếp đến các cơ quan nên anh cho rằng việc đăng ký trực tuyến là một giải pháp tối ưu cho những người bận rộn như anh.
Còn bác Trương Thu Hiền (ở quận Nam Từ Liêm) chia sẻ, do khả năng về công nghệ thông tin còn hạn chế nên vẫn ra phường làm các thủ tục theo thói quen, như vậy cảm thấy yên tâm hơn. Tuy nhiên, sau khi được cán bộ hướng dẫn về các bước đăng ký trực tuyến, bác nhận thấy không hề khó như bản thân nghĩ nên thấy rất phấn khởi và sẽ tuyên truyền để nhiều người lớn tuổi như mình biết đến dịch vụ tiện ích này hơn.
Tuy nhiên, số lượng “công dân điện tử” như anh Hùng, bác Hiền hiện nay vẫn còn khá khiêm tốn khiến các dịch vụ công trực tuyến chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Phần lớn dân cư là người cao tuổi, dân lao động nên trình độ sử dụng công nghệ thông tin còn kém, thậm chí không biết gì về internet nên e ngại và muốn trực tiếp đến các cơ quan hành chính làm thủ tục cho yên tâm.
Còn những người biết sử dụng lại có tâm lý lo ngại về sự mất an toàn thông tin khi sử dụng loại dịch vụ này. Một nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng tới chất lượng triển khai các dịch vụ công trực tuyến đó là hệ thống trang thiết bị của mạng lưới trực tuyến chưa đồng bộ, đường truyền chưa ổn định, phần mềm đôi lúc còn lỗi, các phần địa danh tuy được cập nhật thường xuyên nhưng vẫn chưa được đầy đủ, toàn diện.
Đề xuất giải pháp, Phó Chủ tịch UBND phường Mỹ Đình 1 Vũ Thị Hải Vân cho hay, do đã được thí điểm trước khi vận hành chính thức trên toàn thành phố nên việc triển khai các dịch vụ này ở phường cơ bản ổn định và thuận lợi, đến nay phường đã nhận và giải quyết hơn 500 hồ sơ trực tuyến.
Tuy nhiên, để đông đảo người dân được thụ hưởng các tiện ích từ những dịch vụ công trực tuyến này, mỗi địa phương cần đẩy mạnh tuyên truyền để giúp người dân tăng cường khả năng và thói quen sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, từ đó góp phần xây dựng thành công chính quyền điện tử trên địa bàn thành phố. (Pháp Luật Việt Nam 22/5) đầu trang(
Tỉnh Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong cả nước triển khai mô hình Trung tâm hành chính công. Đây là bước đột phá về công tác cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư.
Năm 2016, Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh xếp thứ 4/20 đơn vị Cảnh sát PCCC trong cả nước về công tác cải cách hành chính. Qua khảo sát mức độ đáp ứng dịch vụ hành chính hàng tháng của tỉnh Quảng Ninh đối với các sở, ban, ngành, lực lượng Cảnh sát PCCC tỉnh luôn nằm trong tốp các đơn vị được tín nhiệm cao. Theo đó, 98% kết quả khảo sát đều hài lòng với sự phục vụ của bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ của Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh.
Tỉnh Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong cả nước triển khai mô hình Trung tâm hành chính công. Đây là bước đột phá về công tác cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư. Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh xác định đây là giải pháp chiến lược, trọng điểm cải cách thủ tục hành chính về PCCC toàn diện.
Ngày 2-2-2016, Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh tham mưu cho UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành quyết định công bố 14 thủ tục hành chính về PCCC, phối hợp với Trung tâm hành chính công xây dựng quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ theo tiêu chuẩn ISO 9001-2008 đưa 14 bộ thủ tục hành chính thực hiện tại Trung tâm hành chính công.
Theo đó, các bước giải quyết thủ tục hành chính từ các khâu như: tiếp nhận, chuyển hồ sơ, thẩm định và trả hồ sơ được quản lý trên phần mềm được kết nối internet, cung cấp các thông tin về tiến trình thực hiện thủ tục. Các tổ chức, cá nhân và thủ trưởng các phòng nghiệp vụ theo dõi và giám sát việc giải quyết hồ sơ thông qua máy tính hay điện thoại.
Đến nay, 8/14 thủ tục hành chính về PCCC rút ngắn 50% thời gian thực hiện so với quy định. Cụ thể, thủ tục kiểm định phương tiện PCCC giảm 30 ngày xuống 15 ngày; thủ tục cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ PCCC giảm từ 7 ngày xuống 3 ngày; thủ tục cấp đổi, cấp lại Giấy xác nhận kinh doanh dịch vụ PCCC, Giấy chứng nhận huấn luyện PCCC giảm từ 5 ngày xuống 3 ngày; thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển chất hàng nguy hiểm cháy nổ giảm từ 10 ngày xuống 5 ngày; thủ tục thẩm duyệt thiết kế quy hoạch giảm từ 10 ngày xuống 5 ngày.
Năm 2017, đơn vị triển khai thực hiện chủ đề công tác của Bộ Công an "Đổi mới, chủ động, kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả”, Cuộc vận động "Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ" và Kế hoạch chủ đề năm của UBND tỉnh Quảng Ninh “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh”.
Bộ phận tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh nêu cao tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng tin học, văn hóa ứng xử, phục vụ tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. Mỗi cán bộ chiến sỹ thực hiện những việc làm cụ thể với phương châm: lấy người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp là thước đo kết quả công việc.
Đến đầu năm 2017, Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.270 hồ sơ, trong đó 34% hồ sơ được giải quyết trước thời hạn. Hồ sơ thủ tục hành chính về PCCC được tiếp nhận và giải quyết tại Trung tâm hành chính công ngày càng tăng. Năm 2016, đơn vị tiếp nhận và giải quyết 651 hồ sơ, tăng gấp 5 lần so với năm 2015. Từ đầu năm 2017 đến nay, đơn vị tiếp nhận 488 hồ sơ, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2016.
Theo Đại tá Phí Văn Minh, Giám đốc Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh: Để công tác cải cách thủ tục hành chính đáp ứng yêu cầu công việc, là điểm sáng cơ chế "một cửa" và "một cửa liên thông", Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh triển khai các giải pháp như: tuyên truyền việc thực hiện tiếp nhận hồ sơ tại Trung tâm hành chính công và tiếp nhận, giải quyết hồ sơ qua mạng để người dân biết và thực hiện; phấn đấu 100% hồ sơ tiếp nhận tại Trung tâm hành chính công.
Thực hiện các chủ trương của Chính phủ, Bộ Công an, UBND tỉnh Quảng Ninh về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp về công tác PCCC. Rà soát, cắt giảm 50% thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, phục vụ người dân.
Đẩy mạnh việc chuyển hồ sơ qua mạng Internet và ứng dụng công nghệ thông tin trong thẩm định hồ sơ, cắt giảm khâu trung gian trong việc chuyển và thẩm định hồ sơ. Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao đạo đức công vụ. Xây dựng hình ảnh đẹp của cán bộ Cảnh sát PCCC tỉnh Quảng Ninh trong lòng dân, "vì nhân dân phục vụ"... (Công An Nhân Dân 20/5) đầu trang(

KINH TẾ
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ mơi tổ chức buổi tọa đàm “làm thế nào để kinh doanh hiệu quả với thị trường Trung Quốc”.
Buổi tọa đàm có sự tham gia của các chuyên gia, hiệp hội và DN kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa với thị trường Trung Quốc.
TS Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ phân tích: Trung Quốc (TQ) là thị trường lớn đối với Việt Nam, trong đó ĐBSCL là vựa lúa gạo, trái cây, thủy hải sản có quan hệ thương mại thị phần lớn với TQ. Trong 3 tháng đầu năm 2017 XK trái cây nước ta đạt trên 500 triệu USD thì có hơn 310 triệu USD XK vào thị trường TQ.
Các nông sản khác xuất vào thị trường nước này: Gạo chiếm 36%, tôm chiếm 11-15%, cá tra tăng mạnh trở thành dẫn đầu so với các thị trường khác. Tuy nhiên thị trường này cũng có những rủi ro, như khi TQ ngưng mua heo khiến giá giảm khủng khiếp. Trước đó một số mặt hàng như sắn, khoai lang, dưa hấu… cũng chịu tác động rất mạnh từ biến động thị trường này.
Theo TS Dũng, qua kinh doanh mua bán chỉ qua một số thương nhân, doanh nhân nhỏ theo dạng thương lái buôn chuyến qua đường tiểu ngạch chưa đủ tạo niềm tin. Hơn nữa hoạt động thương mại biên mậu gần đây tiềm ẩn nhiều rủi ro do hai bên chưa hiểu biết sâu sắc về văn hóa, thể chế thương mại. Khách du lịch ngày càng gia tăng ở các tỉnh miền Trung, miền Bắc cho thấy một số bất cập gây tổn thương hoạt động kinh doanh hai nước do thiếu thông tin, thiếu thể chế kiểm soát phù hợp.
Rút kinh nghiệm, khi lượng du khách TQ tăng lên, các DN và nông dân ở miền Tây Nam bộ cần có chuẩn bị tốt cho mối quan hệ kinh doanh trong lĩnh vực này, từ đó làm cơ sở đề xuất các phương thức, chính sách đối với chính quyền địa phương và bộ ngành liên quan, giúp chủ động tìm cơ hội kinh doanh với thị trường TQ.
Ông Phan Chánh Dưỡng, chuyên gia kinh tế, giảng viên thực tiễn lĩnh vực quản lý chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho rằng: Thực tại DN hai nước vẫn chưa thật sẵn sàng cho cuộc hợp tác làm ăn lớn, dù rằng DN hai bên đều biết thị trường tiềm năng của nhau. Hơn nữa thông tin thị trường giữa hai nước còn rất thiếu, không đủ để DN tránh được rủi ro trong kinh doanh.
Vì sao một số mặt hàng nông sản Việt Nam XK đôi khi gặp rủi ro, điệp khúc cũ cứ lặp đi lặp lại? Cách nào để DN Việt tìm kiếm cơ hội kinh doanh và ít bị rủi ro nhất đối với thị trường TQ?
Ông Dưỡng đề xuất: Vai trò nhà nước vô cùng lớn trong kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Do đó phải có một chủ trương, chính sách pháp luật rõ ràng từ hai nước để DN hai bên hợp tác kinh doanh yên tâm. Chúng ta cần có bộ phận nghiên cứu thị trường nhằm nắm bắt được những đặc tính, yêu cầu tiêu dùng của thị trường để khai thác hiệu quả, trong đó hàng nông - thủy hải sản, du lịch là quan trọng nhất.
Các DN và tổ chức hiệp hội ngành hàng xây dựng ngay kế hoạch tìm hiểu, xâm nhập thị trường TQ, nắm bắt thị hiếu, độ lớn của thị trường từng vùng của TQ; kết hợp DN TQ tại địa phương, xây dựng mạng lưới cung ứng hàng đến nơi tiêu thụ. Xây dựng đầu mối giao dịch ngay các cửa khẩu (khu ngoại quan), phát triển dịch vụ logistic tổng hợp nhằm giảm các chi phí và những rủi ro trong kinh doanh, tạo điều kiện cho các DN vừa và nhỏ của Việt Nam tham gia khai thác thị trường TQ; mời gọi sự hợp tác của các tay nghề chế biến hay các xí nghiệp chế biến của Trung Quốc đến cùng với DN Việt Nam tạo ra những sản phẩm theo qui cách, thị hiếu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc nhằm nâng giá trị hàng hóa XK của Việt Nam.
Khuyến khích các DN lớn của TQ hợp tác với DN Việt Nam trong khai thác thị trường TQ cũng như thị trường thế giới; đồng thời hạn chế tối đa XK biên mậu đối với những mặt hàng có khối lượng, doanh số lớn, làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường XK chính ngạch của hai nước. (Nông Nghiệp Việt Nam 22/5) đầu trang(
Đã có nhiều tín hiệu khả quan từ đề án sản xuất cá ngừ đại dương (CNĐD) theo chuỗi giá trị tại Nam Trung Bộ. Sau hơn 2 năm (kể từ tháng 8.2014) triển khai, mô hình doanh nghiệp (DN) làm trung tâm chuỗi đã bắt đầu khẳng định hiệu quả liên kết…
Ngày 20.5, Bộ NNPTNT đã tổ chức hội nghị sơ kết đề án “Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi” tại tỉnh Phú Yên. Đến nay, đề án đã được triển khai ở 3 tỉnh trọng điểm là Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.
Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NNPTNT), sau thời gian triển khai đề án tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa, các chủng loại sản phẩm CNĐD đã bắt đầu đa dạng, gồm CNĐD đông lạnh nguyên con, chế biến đông lạnh, hấp chín đông lạnh, đồ hộp,… Kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam năm 2016 đạt hơn 509 triệu USD.
Đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết theo chuỗi. Điển hình, Công ty TNHH Thịnh Hưng (huyện Cam Lâm, Khánh Hòa) đang liên kết sâu sắc với Tổ hợp tác (THT) nghề cá Phước Đồng, bắt đầu giải được bài toán “được mùa, mất giá”. Theo ông Trần Văn Đạt - Tổ trưởng THT Phước Đồng, hơn 6 tháng triển khai liên kết với Thịnh Hưng, các tàu thành viên đã thực hiện được 324 chuyến biển, sản lượng khai thác bình quân đạt 1,5 tấn/tàu/chuyến.
“Hợp đồng tham gia chuỗi liên kết, các tàu CNĐD được hỗ trợ vốn, hướng dẫn công nghệ khai thác mới và cam kết bao tiêu sản phẩm. Ngoài thu mua theo giá thị trường, Thịnh Hưng còn hỗ trợ thêm 2.000 đồng/kg cho toàn bộ lô cá ngừ sau khai thác có 10% sản phẩm đạt loại A” - ông Đạt nói.
Theo Phó Giám đốc Công ty TNHH Thịnh Hưng Huỳnh Đắc Trí, nhân viên kỹ thuật của đơn vị luôn túc trực ở cảng để phân loại cấp cá để mua theo từng giá khác nhau. Sau đó, kết quả chất lượng sản phẩm từng tàu cá được niêm yết công khai, báo cáo cụ thể với cơ quan chức năng.
Ông Trí thông tin, hiện Thịnh Hưng mua CNĐD với giá 110.000 đồng/kg, tăng 10.000 đồng/kg so với năm trước. Và chất lượng CNĐD trong chuỗi đã tăng 15 - 20% so với thời điểm chưa hợp đồng liên kết với ngư dân.
Tại cuộc đối thoại sơ kết 2 năm thực hiện đề án trên do Bộ NNPTNT tổ chức ở Phú Yên ngày 20.5, rất nhiều ý kiến “nảy lửa” đã được bộc bạch. Ngư dân Lê Thái Bình (TP.Tuy Hòa, Phú Yên) nhìn nhận, việc trang bị công nghệ mới cho nghề câu CNĐD hiện quá sức tản mạn. “Ngư dân thiếu vốn đầu tư, nên chỉ một số ít được DN trong chuỗi tiến hành trang bị. Nhưng câu cá tốt về bờ lại bị mua đổ đồng với các loại cá kém chất lượng, vì thế một số tàu cứ an phận làm “kiểu cũ” cho… đỡ mất công”- ngư dân Bình nói.
Bà Trần Thị Thu Hà - Phó Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam nhìn nhận: “Nhiều người cứ than thở thiếu tàu dịch vụ hậu cần trên biển. Thế nhưng khoảng cách các tàu đánh bắt trên biển rất xa nhau, nếu sắm tàu đi mua gom thì không khả thi”.
Ông Nguyễn Hưng Hòa - Giám đốc Công ty TNHH Nguyễn Hưng (Phú Yên) nói: “Chúng tôi cũng mua cá trong sự cạnh tranh khốc liệt, không thể tự ý mua giá thấp. Các tổ tàu thuyền cũng nên bàn lịch cập cảng rải đều, tránh tình trạng cá bị xuống cấp trong khi chờ đợi đến lượt cân, mua”.
Chủ trì đối thoại, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường đã chỉ ra những tín hiệu giá trị bước đầu và “những khoảng cách còn lại” phải chinh phục. “Thực tế, một số chuỗi hiệu quả đã khẳng định sự năng động và trách nhiệm của DN - ngư dân trong làm ăn liên kết. Song nhìn chung, tính chất liên kết của nhiều mô hình vẫn còn rời rạc và sự lan tỏa chưa cao, chưa phát huy hết năng lực DN và ngư dân khai thác CNĐD. Hiệu quả kinh tế liên kết vẫn còn cách biệt quá xa so với tiềm năng thực tế. Vì thế, thu nhập từ ngư dân đến DN đều bị “kéo tụt”, trong đó, thu nhập thấp nhất là ngư dân”- ông Cường đánh giá.
Bộ trưởng Cường cũng nhấn mạnh: Tôi yêu cầu các cơ quan chức năng phải rà soát lại các chính sách liên quan đề án trên, tổng kết sâu từng mô hình liên kết trên biển, khai thông cơ chế phát triển ngành CNĐD Việt Nam. Cùng với nâng chất xuất khẩu, các bên liên quan cần tập trung hướng đến chế biến, tiêu thụ CNĐD tại “sân nhà”. Bởi lượng du khách đến Việt Nam đang tăng ổn định, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm CNĐD của người Việt cũng đang tăng cao. (Dân Việt 22/5) đầu trang(
Giữ vai trò quan trọng trong nhóm ngành bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ngành công nghiệp khí Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ mà Chính phủ giao: “Đẩy mạnh đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên, đa dạng hóa sản phẩm, nhằm nâng cao giá trị sử dụng của khí và hiệu quả của sản phẩm khí trong nền kinh tế đất nước”.
Xứng đáng với vị trí tiên phong, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) đã triển khai nhiệm vụ bằng nhiều chương trình đồng bộ và hiệu quả.
Khí thiên nhiên hay khí đồng hành sau khi được xử lý, trở thành một nguồn nhiên liệu sạch và thân thiện với môi trường, thải ra ít CO2 và NOx (là các nhân tố chính gây ra sự nóng lên toàn cầu và mưa a-xít) so với dầu và than đá. Do sự đa dạng về thành phần mà khí thiên nhiên được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp từ sản xuất năng lượng (điện, nhiên liệu) đến sản xuất nguyên liệu cho ngành hóa dầu.
Từ khí có thể sản xuất các sản phẩm quan trọng như LPG, a-mô-ni-ắc, me-ta-nol, ê-ty-len, pro-py-len trong đó ê-ty-len, pro-py-len là những nguyên liệu cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong công nghiệp hóa dầu... Chúng ta gọi chung chặng đường xử lý khí này là chế biến sâu khí thiên nhiên. So với việc bán và sử dụng khí ban đầu, việc chế biến sâu sẽ giúp gia tăng giá trị khí, tận dụng và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, giúp chủ động và tự lực hơn nữa trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Ngày 23-7-2015, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 41-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035, trong đó khẳng định quan điểm: Công nghiệp Khí và Chế biến Dầu khí là hai trong năm lĩnh vực chính trong Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam.
Trên cơ sở Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 23-7-2015 của Bộ Chính trị, tại Quyết định số 60/QĐ-TTg ngày 16-1-2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035”, trong đó, một lần nữa khẳng định quan điểm: Đẩy mạnh đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên, đa dạng hóa sản phẩm nhằm nâng cao giá trị sử dụng của khí và hiệu quả của sản phẩm khí trong nền kinh tế. Chính phủ đã yêu cầu phát triển lĩnh vực hóa dầu từ khí, tăng cường đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên để nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm khí; tạo ra các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu để phục vụ phát triển sản xuất công nghiệp trong nước, hướng tới xuất khẩu...
Và đây chính là nhiệm vụ trọng tâm trong Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam. Từ đó, các nhiệm vụ cụ thể được đề ra như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thu gom, vận chuyển, xử lý trên nguyên tắc sử dụng cao nhất công suất hệ thống hạ tầng hiện hữu; từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hệ thống kho chứa, nhập khẩu, phân phối LNG; đẩy mạnh đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên, đa dạng hóa sản phẩm nhằm nâng cao giá trị sử dụng của khí, giảm tỷ trọng nhập siêu...
“Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035” được phê duyệt tại Quyết định nêu trên là một bước phát triển nhất quán, tiếp nối “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 459/QĐ-TTg ngày 30-3-2011), trong đó có nội dung: Đẩy mạnh đầu tư chế biến sâu khí thiên nhiên, đa dạng hóa sản phẩm nhằm nâng cao giá trị sử dụng của khí và hiệu quả của sản phẩm khí trong nền kinh tế, giảm thiểu tỷ trọng LPG nhập khẩu.
Như vậy, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh chế biến sâu khí thiên nhiên được xuyên suốt qua nhiều thời kỳ, mang tính đồng thuận cao khi được Chính phủ quan tâm đặc biệt và được các bộ, ngành, PVN triển khai chỉ đạo xuyên suốt. Chiến lược này càng trở nên đúng đắn khi những biến động năng lượng toàn cầu đang yêu cầu mỗi quốc gia phải đẩy mạnh tiết kiệm, trân trọng nguồn tài nguyên và bảo đảm chủ quyền quốc gia dựa trên quyền tự chủ về năng lượng và lương thực.
Ngành công nghiệp khí Việt Nam nói chung, Tổng công ty Khí Việt Nam - CTCP (PV GAS) nói riêng kể từ khi thành lập vào năm 1990 đến nay, luôn được Đảng và Nhà nước, các bộ, ngành T.Ư, nhất là PVN quan tâm, chỉ đạo, đã không ngừng phát triển, trở thành một doanh nghiệp khí mạnh, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao, hoạt động tương đối hoàn chỉnh trong tất cả các khâu; góp phần cùng với PVN đóng góp quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Việc phát triển nền công nghiệp khí với chiến lược sâu và rộng đã đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của đất nước, đi đầu trong mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia có hiệu quả bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
Quá trình thu gom an toàn, hiệu quả, tối đa các nguồn khí hiện có, tích cực tìm kiếm các mỏ/nguồn khí bổ sung, tập trung nguồn lực đưa các nguồn khí mới vào bờ đúng tiến độ, tăng cường chất lượng chế biến và kinh doanh khí... là những hành động đúng đắn và sáng tạo mà PVN/PV GAS đang và sẽ thực hiện, biến chiến lược thành hiện thực hiệu quả.
Trong nhiều năm qua, quyết tâm đẩy mạnh khâu chế biến sâu khí và các sản phẩm khí, thể hiện rõ nét nhất là toàn bộ nguồn khí vào bờ đều phải qua các nhà máy xử lý khí để sản xuất ra các sản phẩm khí đa dạng, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của khách hàng mà còn gia tăng giá trị sản phẩm khí trong chuỗi thu gom - xuất nhập khẩu - vận chuyển - chế biến/chế biến sâu - tồn trữ - dịch vụ - kinh doanh khí và sản phẩm khí của PV GAS. Tại khu vực Đông Nam Bộ, PV GAS đang vận hành Nhà máy xử lý khí Dinh Cố (PV GAS đầu tư 100%) và Nhà máy xử lý khí Nam Côn Sơn (PV GAS đầu tư 51% cùng hai đối tác nước ngoài) để chế biến sâu nguồn khí Cửu Long và Nam Côn Sơn, tạo ra các sản phẩm LPG, condensate bên cạnh sản phẩm khí khô.
Nhận thức được lợi ích về mặt KTXH của hoạt động chế biến sâu trong chuỗi sản xuất, kinh doanh của ngành khí, tập đoàn đã giao cho PV GAS các nhiệm vụ nghiên cứu, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư các dự án với công nghệ tiên tiến nhất để chế biến sâu sản phẩm khí: ê-tha-ne và po-ly-pro-py-len tại khu vực Đông Nam Bộ. Đầu năm 2017, Tập đoàn và PV GAS đã ký cam kết việc bảo đảm nguồn nguyên liệu khí ê-tan cho Dự án Tổ hợp hóa dầu Miền Nam. Nhà máy sản xuất ê-tan của PV GAS là một dự án thành phần nằm trong tổng thể chuỗi dự án Nam Côn Sơn 2 - Giai đoạn 2.
Tổ hợp hóa dầu Miền Nam sẽ sử dụng ê-tan do PV GAS cung cấp như một trong những nguyên liệu đầu vào cho nhà máy để sản xuất các sản phẩm nhựa po-ly-ê-ty-len và po-ly-pro-py-len. Việc ký hợp đồng cung cấp ê-tan cho LSP dự kiến sẽ đem lại doanh thu cho PV GAS khoảng 100 triệu USD/năm, bắt đầu từ quý IV-2021.
Tại khu vực Tây Nam Bộ, PV GAS được Chính phủ và PVN giao nhiệm vụ tham gia ở khâu trung nguồn đối với khí và khâu hạ nguồn đối với LPG và condensate sản xuất từ Nhà máy xử lý khí Cà Mau. Dự án Nhà máy xử lý khí Cà Mau là một thành phần trong cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau, đã được PVN phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình để sản xuất LPG và condensate từ nguồn khí thuộc bể Malay - Thổ Chu để gia tăng giá trị trong chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của PV GAS tại khu vực Tây Nam Bộ nói riêng và ngành công nghiệp khí Việt Nam nói chung. Dự án này được triển khai đồng thời cùng với chuỗi các dự án từ khâu thượng nguồn (thăm dò, khai thác) đến khâu trung nguồn (vận chuyển) và khâu hạ nguồn (chế biến và tiêu thụ).
Với kinh nghiệm đầu tư, vận hành, khai thác các công trình khí trong gần 27 năm hình thành và phát triển, PVGAS tự tin nhận thức được, kiểm soát được rủi ro và áp dụng các giải pháp để bảo đảm hiệu quả đầu tư các Dự án chế biến sâu khí thiên nhiên. Bên cạnh đó, với vai trò là công ty mẹ, PVN đã tích cực chỉ đạo để bảo đảm kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tốt nhất cho từng đơn vị thành viên, hài hòa lợi ích chung trong toàn PVN.
Tổng công ty Khí Việt Nam công bố triển khai thực hiện kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 2016-2020 căn cứ trên Chương trình hành động của ngành công thương thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kế hoạch do Chính phủ ban hành về phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020; Chương trình hành động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thực hiện kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 2016-2020; Chiến lược phát triển đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 và kế hoạch 5 năm 2016-2020 của PV GAS đã trình Tập đoàn năm 2016. Trong đó, chiến lược chế biến sâu khí thiên nhiên là một nội dung triển khai hết sức quan trọng.
Mục tiêu được đề ra trong giai đoạn 2016 - 2020 của PV GAS là: Phát triển Tổng công ty Khí Việt Nam thành doanh nghiệp khí mạnh, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao, hoạt động hoàn chỉnh trong tất cả các khâu thu gom - xuất nhập khẩu - vận chuyển - chế biến/chế biến sâu - tồn trữ - dịch vụ - kinh doanh khí và sản phẩm khí, tham gia hoạt động đầu tư thượng nguồn; đóng vai trò chủ đạo trong ngành công nghiệp khí trên toàn quốc, phấn đấu phát triển thành doanh nghiệp ngành khí hàng đầu khu vực và có tên trong các doanh nghiệp ngành khí mạnh của châu Á. PV GAS cũng định hướng phát huy cao nhất và hiệu quả mọi nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thành và hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh 5 năm 2016 - 2020.
Quy hoạch ngành công nghiệp khí đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 60/QĐ-TTg ngày 16-1-2017 tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho Tập đoàn cũng như PV GAS phát triển các dự án, tận dụng thế mạnh khi PV GAS đã tích lũy nhiều kinh nghiệm từ việc thực hiện đầu tư và vận hành các dự án/công trình khí lớn, công nghệ cao; bảo đảm an ninh an toàn nhiều năm qua.
Để hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch những năm tới, PV GAS quyết tâm triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực. Nhiệm vụ quan trọng đó là: Tập trung mọi nguồn lực thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, vận hành an toàn, chế biến và kinh doanh hiệu quả các sản phẩm chủ đạo, kiên quyết xử lý các vi phạm, các hành vi lãng phí năng lượng, tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
Các hệ thống khí trên toàn quốc được bảo đảm xây dựng, vận hành và kinh doanh, xuất nhập khẩu khí đồng bộ, an toàn, hiệu quả, tối ưu. PV GAS cũng thực hiện đa dạng hóa và gia tăng sản lượng các sản phẩm khí; tăng cường chế biến sâu khí và sản phẩm khí trên cơ sở hiệu quả; thực hiện giải pháp tăng tỷ lệ thu hồi LPG; triển khai đầu tư dự án tách ê-tha-ne cung cấp cho dự án Tổ hợp hóa dầu miền Nam; thường xuyên rà soát công tác đầu tư hệ thống kho chứa, cảng xuất, trạm nạp và hệ thống phân phối sản phẩm khí (LPG, CNG, LNG), bảo đảm việc tồn trữ, phân phối kịp thời, thuận tiện, ổn định, hiệu quả, đáp ứng mục tiêu kinh doanh. PV GAS quyết tâm giữ vai trò chủ đạo và nâng cao vị thế trong ngành công nghiệp khí; đồng thời khẳng định trách nhiệm bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. (Nhân Dân 22/5) đầu trang(

MÔ HÌNH – KINH NGHIỆM
Tây Ninh là địa phương đầu tiên được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chọn thí điểm phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hội nhập thị trường quốc tế. Với những lợi thế về tiềm năng, vị trí địa lý, và quan trọng nhất là sự hưởng ứng tích cực từ người nông dân, Tây Ninh đang có những bước đi để phát triển đúng hướng, phấn đấu trở thành thủ phủ nông nghiệp sạch của cả nước...
Chúng tôi đến gặp ông Nguyễn Văn Sáu, 49 tuổi, ngụ ấp Bình Hòa, xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng để tìm hiểu về dự án trồng khóm (dứa). Vườn khóm của ông Sáu mới trồng được khoảng hơn một tháng nay, nhưng đã cho thấy những dấu hiệu sinh trưởng rất tốt. Những hàng khóm thẳng tắp, đang vươn lên xanh mượt. Ở vùng đất quanh năm chua phèn nhiễm mặn này, ít người dám mạnh dạn như ông.
Ông Sáu kể: “Trước kia, khi tôi gom tiền để mua đất ở khu vực này ai cũng nói là liều vì hầu hết nông dân ở đây đều thất bại với các loại cây trồng. Nhưng qua việc nghiên cứu, tìm hiểu và đi thực tế ở các địa phương khác, tôi biết cây khóm hợp với những vùng đất chua phèn nhiễm mặn cho nên tôi mạnh dạn trồng thử nghiệm”. Để trồng được giống cây này, ông Sáu đầu tư hơn 600 triệu đồng đắp đê bao quanh, làm hệ thống mương thoát nước, lắp đặt hệ thống tưới tự động, làm đường giao thông nội bộ và mua khóm giống về trồng thí nghiệm trước 3 ha trong tổng số gần 200 ha đất nông nghiệp của gia đình.
Theo ông Sáu, ngoài những kiến thức tự tìm hiểu, ông còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ địa phương về công tác chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho khóm. Chẳng phải tự nhiên mà ông bỏ công sức, tiền của để đưa khóm ra trồng trên một diện tích lớn như thế. Hiện ông đã chuẩn bị quỹ đất khoảng 200 ha để mở rộng diện tích nhằm cung cấp sản lượng theo thỏa thuận đã ký kết cho Nhà máy Tanifood chuyên chế biến trái cây đông lạnh xuất khẩu ở huyện Gò Dầu.
Khi chắc chắn bảo đảm được đầu ra ổn định, cùng với sự hỗ trợ hiệu quả từ cán bộ khuyến nông địa phương, ông mạnh dạn trồng đại trà diện tích khóm theo hướng bảo đảm chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm do nhà máy đưa ra. Theo nhẩm tính của ông Sáu, khi cây khóm đã phát triển ổn định có thể mang lại cho ông thu nhập khoảng 150 triệu đồng/năm/3 ha thử nghiệm, cao gấp đôi so với trồng lúa như trước đây.
Mãng cầu (na) là một trong những trái cây nổi tiếng của tỉnh Tây Ninh. Đây cũng là sản phẩm đã được cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý tại địa phương. Vườn trồng mãng cầu rộng 5 ha của ông Huỳnh Biển Chiêu (xã Thạnh Tân, TP Tây Ninh) được chọn để triển khai mô hình “Nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất mãng cầu ta theo tiêu chuẩn VietGAP”.
Theo ông Chiêu, trước đây gia đình ông trồng mãng cầu theo kiểu truyền thống, trái thường bị sâu đục, không đều đẹp, chưa thật sự chất lượng, năng suất không cao. Nhưng mọi chuyện đã khác khi ông được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn trồng mãng cầu theo tiêu chuẩn VietGAP giúp năng suất tăng, bình quân đạt 9 đến 10 tấn/ha, trái to, đẹp và bảo quản được lâu hơn. Nông dân Huỳnh Biển Chiêu cũng là người đầu tiên áp dụng thành công biện pháp chống dịch ruồi vàng đục trái, gây dòi trong trái mãng cầu bằng cách bao trái từ khi còn non. Cách này chi phí tuy cao, nhưng khá hiệu quả.
Hiện, sản phẩm mãng cầu của gia đình ông đã được xuất khẩu ra nước ngoài và được thị trường chấp nhận bởi chất lượng và an toàn. Ông Chiêu cho biết, gia đình cũng đang tích cực phát triển mạnh hơn nữa thương hiệu trái mãng cầu đã được nhiều người dân trong cả nước biết đến song băn khoăn lớn nhất của ông chính là việc tìm được đầu ra ổn định cũng như vấn đề giá cả của trái mãng cầu đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, bởi chi phí trồng theo hình thức này bao giờ cũng cao hơn so với cách trồng truyền thống.
Có thể nhận định, hội thảo quốc tế Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp hội nhập thị trường quốc tế được tổ chức đầu năm nay là một sự gợi mở tích cực đối với tâm lý người nông dân ở Tây Ninh. Ngay sau đó, tại nhiều địa phương, nhiều cuộc hội nghị, hội thảo đã diễn ra để triển khai thực hiện các ký kết xúc tiến đầu tư giữa nhà đầu tư với người nông dân. Đơn cử như tại huyện Dương Minh Châu, hội thảo triển khai đề án phát triển chuỗi giá trị nông sản hội nhập thị trường thế giới thu hút gần 300 nông dân tham gia. Mọi người rất hào hứng với viễn cảnh có thể làm giàu ngay trên chính mảnh đất của mình.
Bí thư Huyện ủy Dương Minh Châu Nguyễn Thị Xuân Hương phấn khởi cho hay: “Ngay sau buổi hội thảo, 250 nông dân trong huyện đăng ký tham gia chương trình nông nghiệp công nghệ cao với tổng diện tích đóng góp lên tới 500 ha”. Đó được xem như một sự “cởi trói” cho người nông dân sau mấy chục năm loay hoay với bài toán cây trồng và thị trường đầu ra.
Để có được những kết quả bước đầu và sự ủng hộ, đồng thuận cao của người dân trong việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Tây Ninh đã có những sự chuẩn bị rất bài bản và chiến lược. Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh Trần Lưu Quang cho biết: Hiện, tỉnh đã chuẩn bị được hơn 2.000 ha đất nông nghiệp dành cho phát triển chuỗi giá trị nông sản. Đây là diện tích đất tỉnh sẽ đứng ra kêu gọi các nhà đầu tư đến và cùng triển khai mô hình.
Qua đó giúp người dân có thể hình dung “nông nghiệp công nghệ cao” là gì để họ chung tay cùng chính quyền địa phương thực hiện. Trước đó, tại hội thảo quốc tế Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp hội nhập thị trường quốc tế, Tây Ninh cũng đã thực hiện nhiều chương trình hợp tác với nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đơn cử như quyết định cho phép Công ty TNHH Lavifood (Long An) xây dựng nhà máy chế biến trái cây đông lạnh. Hiện nhà máy đang được xây dựng với công suất thiết kế 500 tấn nguyên liệu/ngày để chế biến các loại trái cây đông lạnh xuất khẩu.
Bí thư Tỉnh ủy Trần Lưu Quang cho biết thêm: “Vừa qua, tỉnh Tây Ninh cũng đã tổ chức các đoàn công tác đi học tập các mô hình về nông nghiệp công nghệ cao tại Lâm Đồng; tổ chức các cuộc tiếp xúc, tìm kiếm đối tác, nhà đầu tư ở Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Mỹ,… Với quyết tâm đưa Tây Ninh trở thành thủ phủ rau sạch của cả nước, hướng tới thị trường xuất khẩu, tỉnh cũng đã ban hành Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với cơ cấu lại nông nghiệp, trong đó, đặt ra những mục tiêu cụ thể như: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với sản xuất chuyên canh cây ăn trái chất lượng cao quy mô khoảng 15.000 ha đến năm 2020 và 30.000 ha đến năm 2030; rau, củ, quả chuyên canh khoảng 1.000 đến 1.500 ha đến năm 2020 và 4.000 ha đến năm 2030.
Xây dựng ít nhất ba vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với diện tích 800 ha đến năm 2020 và 1.800 ha đến năm 2030. Bình quân giá trị sản phẩm thu hoạch trên diện tích đất trồng trọt đạt 100 triệu đồng/ha đến năm 2020 và 264 triệu đồng/ha đến năm 2030. Phấn đấu đến năm 2020, có ít nhất 40% sản lượng nông sản, thực phẩm (bao gồm rau quả, trái cây) được sản xuất theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, Organic có thể truy xuất được nguồn gốc, đến năm 2030 tỷ lệ này là 60%, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đứng ở góc độ một chuyên gia và là một nhà đầu tư, ông Lê Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Organic Life cho rằng: Những gì Tây Ninh cần làm là thể hiện bằng được sự tiếp cận thị trường theo một phương thức mới.
Tức là, bảo đảm khách hàng trong và ngoài nước sẽ nhận được những thứ mà họ cần, gồm: thấy được một quy trình sản xuất bài bản, đạt tiêu chuẩn của thế giới; thấy được sự chuyển động của cả một chuỗi giá trị từ vùng trồng trọt, người nông dân cho đến nhà máy, chợ đầu mối, đặc biệt là thấy được hệ thống công nghệ chuẩn bị bài bản, từ đó họ sẽ yên tâm ký các hợp đồng lớn với Tây Ninh.
Còn theo Bí thư Tỉnh ủy Trần Lưu Quang, thời gian tới, ngoài nỗ lực cải cách hành chính để thu hút nhà đầu tư, Tây Ninh còn phải tạo được động lực về trách nhiệm, sự cống hiến, nhiệt huyết của một số bộ phận cơ quan, đơn vị còn thiếu tinh thần trách nhiệm chung với công việc. Ngoài ra, cơ quan chức năng cũng cần tập huấn, hướng dẫn về mọi mặt cho người nông dân tiếp cận và hiểu biết nhiều hơn nữa về nông nghiệp công nghệ cao, để họ không bỡ ngỡ khi chuyển đổi từ hình thức làm nông nghiệp truyền thống sang làm nông nghiệp công nghệ cao. (Nhân Dân 22/5) đầu trang(

BÌNH LUẬN – NHẬN ĐỊNH
Tại Nhà ga chính tuyến đường sắt Cát Linh- Hà Đông phải chăng sau này nên đặt một tấm bia đá ghi rõ đây là một dự án đã chậm tiến độ ngót nửa thập kỷ, đã đội hơn 100% tổng vốn, để như một bài học đắt đỏ, đau đớn không được phép lãng quên?!
Vậy là chúng ta phải tiếp tục vay thêm 250 triệu USD cho tuyến đường sắt trên cao Cát Linh- Hà Đông, cho một dự án đã chậm tiến độ ngót nửa thập kỷ mà cũng chưa biết rõ khi nào xong, cho "món cân kê" giờ cũng đã lên tới ngót "tỷ đô" mà cũng chưa rõ đã phải là con số cuối cùng!
Tưởng cũng nên nhắc lại những con số rất đau:
Theo kế hoạch ban đầu, thời gian thực hiện dự án là 11.2008 tới 11.2013. Tổng mức đầu tư 552,86 triệu USD. Tuy nhiên, tới 4.2010, nhát cuốc động thổ đầu tiên mới được bổ xuống. 7 tháng sau, tháng 10.2011, dự án mới chính thức được triển khai. Sau những lần "điều chỉnh", tổng mức đầu tư đã đội lên 868,04 triệu USD (tăng hơn 300 triệu USD so với kế hoạch ban đầu - PV), tương đương với hơn 18.000 tỷ đồng.
Vấn đề ở chỗ không phải chúng ta không biết.
Ngay trước nghị trường, ĐBQH Lê Như Tiến có lần gọi đây là những "trái đắng"! Theo ông Tiến: cần phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng vì vay ODA không phải vay bằng mọi giá mà cân nhắc khả năng trả nợ thế nào, nếu không cẩn thận sẽ trở thành món nợ của con cháu sau này. "Lúc đầu họ đấu thầu rất rẻ, giá rất thấp nhưng sau đó càng ngày càng đội vốn lên. Cuối cùng qua mấy lần đội vốn thì lại thành giá cao nhất. Đã thế thời gian thi công rất chậm chạp. Hơn nữa, họ thường đưa nhân công, lao động phổ thông sang chứ không phải lao động của mình!"
Nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế TƯ, TS Lê Đăng Doanh cũng từng cảnh báo về những món vay gắn kèm điều kiện Việt Nam phải dùng nhà thầu, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu của họ.
Việc này vô cùng bất lợi cho Việt Nam, vì dù chất lượng không đảm bảo nhưng chúng ta vẫn phải phụ thuộc toàn bộ vào họ. Và việc ham lãi suất thấp, ham rẻ chẳng khác gì mua thêm nợ vào cho người dân.
Vấn đề ở chỗ Cát Linh - Hà Đông không phải là "trái đắng" đầu tiên, mà kịch bản như ông Tiến nói cứ lặp đi lặp lại từ dự án nọ sang dự án kia: Thép Thái Nguyên mở rộng đang đắp chiếu khi nhà thầu Trung Quốc bỏ về. 5.400 tỷ đắp chiếu theo. Đạm Ninh Bình lỗ 2.000 tỷ với giá thành sản xuất đắt hơn cả phân nhập từ chính Trung Quốc.
Chúng ta là một quốc gia đang phát triển, những nguồn vốn vay giá rẻ luôn luôn cần thiết. Nhưng để những khoản vay không trở thành "miếng pho mát trong bẫy chuột", việc cẩn trọng, ràng buộc với trách nhiệm có lẽ phải trở thành một trong những nguyên tắc đàm phán, chọn lựa.
Chẳng có cái lý nào mà những dự án đội vốn khủng khiếp, chậm tiến độ kinh khủng (mà chắc những người chữa cháy hôm nay cũng cực chẳng đã, cũng chẳng vui vẻ gì) nhưng lại chẳng ai nhận trách nhiệm!
Đấy, lại vừa nghe chuyện Cao Bằng xin vay 300 triệu USD để làm đường cao tốc! Đó hoàn toàn có thể sẽ trở thành một trái đắng như Cát Linh hôm nay nếu như chuyện lãi suất thấp, giá rẻ luôn được đưa ra như một lý do có tính quyết định. (Lao Động 21/5) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Đảng Xã hội (PSB) Brazil trong liên minh cầm quyền của Tổng thống nước này Michel Temer, ngày 20-5 tuyên bố rút khỏi liên minh và yêu cầu ông Temer phải từ chức sau khi bị Tòa án Tối cao ra lệnh điều tra liên quan tới cáo buộc tham nhũng tại Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (Petrobras).
Tuyên bố của đảng Xã hội sẽ khiến Chính phủ Brazil khó thông qua kế hoạch cải cách hệ thống lương hưu và Luật Lao động, bởi vì họ sẽ mất đi sự ủng hộ của 7 thượng nghị sỹ và 35 hạ nghị sỹ của đảng này tại Quốc hội Brazil. Trong khi đó, một số đảng liên minh khác vẫn đang xem xét để yêu cầu Tổng thống Michel Temer từ chức.
Về phần mình, Tổng thống Temer cũng đã yêu cầu Tòa án Tối cao nước này ngừng việc điều tra cáo buộc tham nhũng đối với ông và ngăn cản điều tra trong vụ bê bối tham nhũng hàng tỷ USD của Tập đoàn Petrobras.
Tuy nhiên, Thẩm phán Tòa Tối cao Brazil Edson Fachin, người tham gia trực tiếp điều tra vụ Petrobras tuyên bố cần điều tra kỹ lưỡng ông Temer bởi có bằng chứng ông này phạm tội. (An Ninh Thủ Đô 22/5) đầu trang(
Hàng nghìn người dân Tây Ban Nha đã xuống đường tuần hành tại trung tâm thủ đô Madrid ngày 20/5 nhằm phản đối tình trạng tham nhũng trong chính phủ của đảng Nhân dân (PP) cầm quyền.
Đảng đối lập Unidos Podemos cùng một số tổ chức khác đã tổ chức cuộc tuần hành này ngay sau khi đề xuất Quốc hội tiến hành cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ của Thủ tướng Mariano Rajoy.
Hiện chưa xác định ngày diễn ra cuộc bỏ phiếu trên, nhưng với chỉ 71 ghế trong Quốc hội và chưa có đảng chính nào bày tỏ sự ủng hộ, đảng Podemos khó có thể có được 176 phiếu cần thiết để "hạ bệ" Thủ tướng Rajoy.
Các động thái này diễn ra sau vụ bắt giữ cựu lãnh đạo vùng đô thị Madrid Ignacio Gonzalez hồi tháng 4 vừa qua, hé lộ tình trạng tham nhũng tại các nhánh của đảng cầm quyền.
Trong khi, hiện đảng PP cũng đang bị điều tra về các vấn đề tài chính bất hợp pháp liên quan đến vụ bê bối nhận tiền hối lộ, được gọi là vụ "Gurtel".
Vụ tham nhũng "Gurtel", bắt đầu được xét xử từ tháng 10/2016 sau cuộc điều tra kéo dài gần một thập kỷ, tập trung vào một mạng lưới lớn trong đó nhiều công ty bị cáo buộc hối lộ các cựu nghị sĩ và công chức thuộc đảng PP để đổi lấy các hợp đồng.
Tổng cộng có 37 bị cáo phải ra hầu tòa, trong đó có 2 cựu thủ quỹ của đảng PP và doanh nhân Francisco Correa, người bị cáo buộc đứng đầu mạng lưới trên. (Bnews 21/5) đầu trang(./.