Xem ngày trước
BẢN TIN TỔNG HỢP
Xem ngày kế tiếp

Ngày 11 tháng 11 năm 2017
CHÍNH SÁCH MỚI
TIÊU ĐIỂM
PHÁT NGÔN NÓNG
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
TRÁI KHOÁY
NHÌN RA THẾ GIỚI

CHÍNH SÁCH MỚI
Quy định mới về quyết toán kinh phí sửa chữa cơ sở vật chất. Từ ngày 10/11/2017, việc lập dự toán, phân bổ và quyết toán kinh phí để thực hiện sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất được thực hiện theo quy định tại Thông tư 92/2017/TT-BTC do Bộ Tài chính mới ban hành.
Thông tư nêu rõ, kinh phí để thực hiện các công trình sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất từ các nguồn kinh phí sau: Nguồn kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; nguồn phí được để lại theo chế độ quy định để chi thường xuyên.
Về phân bổ dự toán: Các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ, giao dự toán chi ngân sách nhà nước cho các đơn vị sử dụng ngân sách phải đảm bảo khớp đúng dự toán chi được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Tài chính hướng dẫn, Hội đồng nhân dân quyết định, Ủy ban nhân dân giao về tổng mức và chi tiết theo từng lĩnh vực chi.
Hồ sơ tài liệu kèm theo khi phân bổ dự toán các công trình sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất như sau: Đối với công trình sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng có chi phí thực hiện dưới 500 triệu đồng, tài liệu bao gồm: Văn bản phê duyệt của cấp có thẩm quyền: Tên công trình, mục tiêu sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng; sự cần thiết, lý do thực hiện; dự toán công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đối với công trình sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng có chi phí thực hiện từ 500 triệu đồng trở lên: Ngoài các tài liệu theo quy định đối với các công trình có chi phí thực hiện dưới 500 triệu đồng; cơ quan, đơn vị gửi thêm quyết định phê duyệt dự án sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng kèm theo dự án (hoặc quyết định phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật kèm theo báo cáo kinh tế kỹ thuật đối với công trình chỉ lập báo cáo kinh tế kỹ thuật); dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật không bắt buộc phê duyệt trước 31/10 năm trước năm kế hoạch nhưng phải có trước khi phân bổ dự toán.
Về quyết toán kinh phí, đối với các công trình có mức vốn dưới 500 triệu đồng: Các cơ quan, đơn vị tổng hợp chung trong báo cáo quyết toán hàng năm theo quy định.
Các công trình có mức vốn từ 500 triệu đồng trở lên: Ngoài việc lập quyết toán hàng năm theo quy định, các cơ quan, đơn vị lập báo cáo quyết toán dự án hoàn thành theo quy định tại Thông tư số 09/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 10/11/2017.
Vi phạm quy định về sử dụng mã số mã vạch có thể bị xử phạt đến 50 triệu đồng. Đó là một trong những nội dung được quy định tại Nghị định 119/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa, có hiệu lực từ 15-12.
Theo đó, liên quan đến hành vi vi phạm quy định về sử dụng mã số mã vạch, Nghị định quy định, phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Không đăng ký lại với cơ quan có thẩm quyền khi có sự thay đổi về tên gọi, địa chỉ giao dịch trên giấy phép kinh doanh hoặc không thông báo bằng văn bản khi giấy chứng nhận quyền sử dụng mã số mã vạch bị mất hoặc hỏng; Không làm thủ tục gia hạn khi giấy chứng nhận quyền sử dụng mã số mã vạch hết hiệu lực; Không xuất trình được văn bản hợp pháp chứng minh về quyền sử dụng mã số mã vạch khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu; Không thực hiện đóng phí duy trì sử dụng mã số mã vạch đúng quy định…
Phạt tiền từ 6 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Sử dụng mã số mã vạch có đầu mã Quốc gia Việt Nam (893) mà chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp quyền sử dụng mã số mã vạch; sử dụng mã số mã vạch đã bị thu hồi; bán, chuyển nhượng mã số mã vạch đã được cấp.
Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Sử dụng mã số mã vạch nước ngoài để in trên sản phẩm, hàng hóa sản xuất, gia công, bao gói, sang chiết tại Việt Nam mà chưa được cơ quan nước ngoài có thẩm quyền hoặc tổ chức sở hữu mã số mã vạch đó cho phép bằng văn bản; sử dụng các dấu hiệu gây nhầm lẫn với mã số mã vạch của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và Tổ chức mã số mã vạch quốc tế.
Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 50 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Cung cấp hoặc sử dụng nguồn dữ liệu về mã số mã vạch không đúng với nguồn dữ liệu mã số mã vạch của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và Tổ chức mã số mã vạch quốc tế; cung cấp thông tin sai lệch về chủ sở hữu hoặc đối tượng sử dụng mã số mã vạch GS1 hợp pháp; phát triển và cung cấp các dịch vụ, giải pháp, ứng dụng dựa trên nền tảng mã số mã vạch của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Mức phạt tiền đối với hành vi buôn bán hàng hóa vi phạm quy định về mã số mã vạch từ 500.000 đồng đến 15 triệu đồng tùy vào giá trị hàng hóa vi phạm.
Hỗ trợ phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em. Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 98/2017/TT-BTC quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020.
Theo đó, kinh phí thực hiện Chương trình gồm ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác.
Thông tư quy định rõ về chi hỗ trợ Trung tâm công tác xã hội trẻ em hoặc hợp phần trẻ em trong Trung tâm công tác xã hội, Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em cấp huyện hoặc Văn phòng tư vấn bảo vệ trẻ em cấp huyện.
Cụ thể, hỗ trợ mua sắm trang thiết bị, đồ dùng cần thiết để cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với mức hỗ trợ theo Dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tối đa 1,3 tỷ đồng/trung tâm đối với Trung tâm công tác xã hội trẻ em hoặc hợp phần trẻ em trong Trung tâm công tác xã hội; tối đa 500 triệu đồng/cơ sở, văn phòng đối với cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em cấp huyện hoặc Văn phòng tư vấn bảo vệ trẻ em cấp huyện.
Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước cũng chi hỗ trợ hoạt động cung cấp và kết nối dịch vụ bảo vệ trẻ em; thiết lập mạng lưới kết nối, tiếp nhận và xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em.
Cụ thể, chi hỗ trợ trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong thời gian lưu trú tạm thời tại địa điểm lưu trú; chi hỗ trợ người cung cấp thông tin về trẻ em 60.000 đồng/trẻ em; chi hỗ trợ cho người đưa trẻ em cần bảo vệ khẩn cấp đến trung tâm, cơ sở với mức hỗ trợ tiền ăn: 70.000 đồng/người/ngày, không quá 03 ngày và tối đa 02 người...
Đồng thời chi xây dựng, triển khai mô hình hỗ trợ can thiệp, trợ giúp trẻ em. Các loại mô hình hỗ trợ can thiệp, trợ giúp trẻ em gồm: Mô hình kết nối, chuyển gửi, tìm gia đình chăm sóc thay thế cho các đối tượng trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; mô hình cung cấp, kết nối dịch vụ trợ giúp chăm sóc sức khỏe, giáo dục, trợ giúp pháp lý và dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; mô hình thí điểm chăm sóc thay thế cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Về hình thức thực hiện, Ngân sách trung ương bảo đảm kinh phí xây dựng mô hình trong dự toán chi của các Bộ, cơ quan trung ương chủ trì thực hiện mô hình và bổ sung có mục tiêu cho các địa phương để triển khai mô hình. Kinh phí nhân rộng mô hình do ngân sách địa phương bảo đảm.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2017.
Quy định chế độ ăn, mặc đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 120/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Nghị định này quy định chi tiết về chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế (chế độ) đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm chăm sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ; việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài.
Về định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Nghị định quy định định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam gồm: 17kg gạo tẻ loại trung bình, 0,5 kg đường loại trung bình, 15kg rau, 0,7kg thịt, 0,8kg cá, 1kg muối, 0,75 lít nước chấm, 0,1kg bột ngọt và chất đốt tương đương 17kg củi hoặc 15kg than, 45kw/h điện, 3m3 nước để đảm bảo phục vụ ăn, uống và sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam ốm đau, bệnh tật, thương tích do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định theo chỉ định của cơ sở y tế điều trị, nhưng không quá 2 lần so với tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng định mức ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam khác và được ăn tăng thêm 30% định lượng về thịt, cá. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sinh con được thanh toán viện phí và bồi dưỡng bằng hiện vật trị giá tương đương 30kg gạo tẻ loại trung bình.
Ngoài tiêu chuẩn ăn quy định ở trên, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quà, tiền gửi lưu ký để ăn thêm nhưng không quá 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Nghị định cũng quy định định mức ăn đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài thực hiện như quy định đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng theo điều ước quốc tế đó; trường hợp vì lý do đối ngoại khác sẽ do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định.
Về chế độ mặc và tư trang, Nghị định quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quần, áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân, nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn theo tiêu chuẩn mỗi người gồm: 1 chiếu, 1 màn cá nhân, 1 đôi dép, 2 bộ quần áo dài, 1 áo ấm mùa đông và 1 chăn (các cơ sở giam giữ từ thành phố Đà Nẵng trở vào dùng chăn sợi, từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra dùng chăn bông loại không quá 2 kg).
Người bị tạm giữ được cấp 1 bàn chải đánh răng, kem đánh răng loại thường không quá 20g, 1 khăn rửa mặt.
Người bị tạm giam được cấp 1 bàn chải đánh răng, kem đánh răng loại thường không quá 100g dùng trong 2 tháng, 1 khăn rửa mặt dùng trong 4 tháng, mỗi tháng được cấp 0,3kg xà phòng giặt.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ giá trị tương đương 2kg gạo tẻ loại trung bình/1 tháng.
Cơ sở giam giữ cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam mượn quần áo theo mẫu thống nhất, áo kiểu bludong dài tay, quần dài có chun, không đóng số, màu xanh lam.
Bên cạnh đó, Nghị định quy định tiền thuốc chữa bệnh thông thường cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam được cấp tương đương 2 kg gạo tẻ loại trung bình/1 người/1 tháng.
Quy định mới về xuất ngũ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ. Từ ngày 15-12-2017, việc xuất ngũ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân được thực hiện theo quy định tại Thông tư 279/2017/TT-BQP do Bộ Quốc phòng mới ban hành, theo chinhphu.vn.
Về hình thức xuất ngũ, hạ sĩ quan, binh sĩ được xuất ngũ đúng thời hạn khi đã phục vụ tại ngũ đủ thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.
Hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ trước thời hạn khi có một trong các điều kiện sau: Hội đồng giám định sức khỏe từ cấp sư đoàn và tương đương trở lên hoặc hội đồng giám định y khoa cấp có thẩm quyền kết luận không đủ tiêu chuẩn sức khỏe phục vụ tại ngũ theo quy định.
Ban chỉ huy quân sự cấp huyện nơi hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ về có trách nhiệm tham mưu cho UBND cùng cấp tổ chức đón nhận hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ về địa phương theo quy định, đồng thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan giải quyết chế độ, chính sách theo quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.
Quản lý chặt chẽ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam. Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 121/2017/NĐ-CP quy định xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam.
Nghị định này quy định về xây dựng, thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng (gọi chung là xây dựng, quản lý, sử dụng) cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam.
Theo đó, việc xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
1- Tuân thủ Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự, Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
2- Mọi thông tin liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được thu thập, cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác, khách quan, khoa học và quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo đúng quy định của pháp luật.
3- Khai thác, sử dụng đúng mục đích, bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được giữ bí mật theo quy định của pháp luật.
4- Việc xây dựng, khai thác, sử dụng thông tin liên quan đến người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, phục vụ công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5- Quản lý chặt chẽ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam, bảo đảm an toàn, an ninh và bảo mật theo quy định của pháp luật trong việc quản lý dữ liệu; tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước; bảo đảm sự tương thích, thông suốt an toàn giữa các hệ thống thông tin.
Nghị định quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam gồm: 1- Cố tình làm sai lệch thông tin, cung cấp thông tin sai lệch; 2- Tự ý lập, tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch thông tin, tài liệu; 3- Cố tình sử dụng sai mục đích kết quả thu thập, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam xâm phạm quyền tự do, danh dự, đời tư và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân và nhà nước theo quy định của pháp luật; 4- Chiếm đoạt, làm hỏng, mất tài liệu, mua bán, chuyển giao, tiêu hủy trái phép thông tin, tài liệu; 5- Truy cập trái phép, thay đổi, giả mạo, sao chép, tiết lộ, gửi, hủy trái phép tài liệu lưu trữ điện tử, tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm làm rối loạn hoặc hủy hoại thông tin và cơ sở dữ liệu.
Chính phủ quy định cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam bao gồm: Hệ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Công an nhân dân do Bộ Công an quản lý và Hệ cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân do Bộ Quốc phòng quản lý.
Nghị định quy định các cơ quan tham gia xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam được quyền khai thác dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi quản lý của cơ quan mình. Việc khai thác cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam ngoài phạm vi quản lý phải được cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam có thẩm quyền phê duyệt; nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử phải được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý bằng văn bản.
Trường hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có yêu cầu tra cứu, cung cấp thông tin, tài liệu lưu trữ về người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam thì phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và Luật lưu trữ; nếu trong thời gian điều tra, truy tố, xét xử phải được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý bằng văn bản.
Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về đấu thầu qua mạng. Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 1735/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về đấu thầu qua mạng với chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, triển khai thực hiện Kế hoạch tổng thể và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng làm Trưởng ban. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng làm Phó Trưởng ban.
Các thành viên là các Thứ trưởng (hoặc tương đương) trở lên thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Công thương; Bộ Xây dựng; Bộ Y tế; Văn phòng Chính phủ; Thanh tra Chính phủ. Thư ký Ban Chỉ đạo là Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ phương hướng, giải pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành trong lĩnh vực đấu thầu qua mạng.
Bên cạnh đó, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hòa, phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành trong việc triển khai thực hiện Kế hoạch tổng thể và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng; giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc các bộ, ngành có liên quan trong việc thực hiện những vấn đề quan trọng, liên ngành liên quan đến lĩnh vực đấu thầu qua mạng.
Ban Chỉ đạo hoạt động theo cơ chế đề cao trách nhiệm của Trưởng ban. Các thành viên Ban Chỉ đạo hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban Chỉ đạo. đầu trang(

TIÊU ĐIỂM
Nhân dịp Tuần lễ Cấp cao APEC 2017 diễn ra tại Đà Nẵng từ ngày 06 đến 11/11, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có bài viết nhan đề "Việt Nam năng động, hội nhập và phát triển ở châu Á-Thái Bình Dương". Cổng thông tin điện tử Chính phủ xin trân trọng giới thiệu nội dung bài viết của Thủ tướng.
Ngày 15/11/1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), đây là sự kiện có ý nghĩa mở ra một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của đất nước trên mọi phương diện, đặt nền móng cho sự hội nhập năng động và tích cực.
Trong 30 năm Đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của Việt Nam đạt gần 7%/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thu hút được 310 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tổng vốn giải ngân thực tế là 165 tỷ USD, trong đó gần 80% là đến từ các nước châu Á-Thái Bình Dương.
Trong số 26 khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện mà Việt Nam đã thiết lập, có các cường quốc hàng đầu ở châu Á-Thái Bình Dương, các nước ASEAN. 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm cả các hiệp định đã ký kết, thực thi và đang đàm phán là minh chứng cho chủ trương chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam cũng như mong muốn thúc đẩy hơn nữa tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới.
Chúng tôi xác định những cải cách, đổi mới, phát huy nội lực trong nước là quan trọng nhất cho sự phát triển thịnh vượng của quốc gia. Trong bối cảnh của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thức 4, Chính phủ kiến tạo phát triển của Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng các cơ chế quản lý linh hoạt, hỗ trợ tiếp cận thị trường minh bạch, duy trì chuẩn mực lao động tiên tiến, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo không ngừng.
Nguyên tắc xuyên suốt là các chính sách phải bắt nhịp với yêu cầu của thực tiễn sinh động, xu thế của công nghệ và toàn cầu hóa, thích nghi tốt với những mô hình kinh doanh mới, giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, đạt được những lợi thế so sánh hiệu quả trên thị trường khu vực và thế giới. Thực tế, Việt Nam đã tăng 14 bậc về xếp hạng môi trường kinh doanh (DB), xếp hạng 68/190 quốc gia, theo đánh giá tháng 10/2017 của WB và tăng 5 bậc về năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), xếp thứ 55/137 quốc gia, theo đánh giá tháng 9/2017 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF).
Trong mọi hoạch định chiến lược phát triển của đất nước, Việt Nam luôn khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. Theo đó, Chính phủ kiến tạo các yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh như thể chế-chính sách, cơ sở hạ tầng, phát triển lành mạnh hệ thống tài chính, cải cách giáo dục, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, đầu tư cho nghiên cứu cơ bản… Chúng tôi tin tưởng sẽ hiện thực hóa mục tiêu 01 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 và đưa kinh tế tư nhân Việt Nam, cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển lên một tầm cao mới, có sức cạnh tranh và khả năng hội nhập trên bình diện khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chủ động tìm kiếm giải pháp của mình để ứng phó với những yếu tố gây cản trở quá trình hội nhập quốc tế như vấn nạn trốn thuế, chuyển giá, công nghệ lạc hậu, chủ nghĩa bảo hộ, khủng bố,…; đồng thời tích cực triển khai các thỏa thuận toàn cầu về phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, đóng góp thiết thực vào việc xây dựng và định hình các thể chế đa phương, nhất là các cơ chế hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Có một xu hướng sẽ được nhận thấy ở Việt Nam trong thập niên tới là sự dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng đặt trọng tâm vào GDP sang tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, tăng trưởng bao trùm và bền vững. Đặc biệt, Việt Nam xem việc theo đuổi các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) và cam kết COP-21 Paris về hạn chế phát thải, bảo vệ môi trường vừa là thước đo, vừa là động lực phát triển trong những thập niên tới.
Với không khí cải cách đang lan tỏa khắp vành đai Thái Bình Dương và với quy mô và vai trò của mình, các nền kinh tế thành viên APEC sẽ góp phần định hình nên những thành tựu phát triển mới trong thế kỷ 21. Theo đó, một tầm nhìn mới cho khuôn khổ APEC trong tương lai cần được xây dựng ngay từ hôm nay. Các khuôn khổ hợp tác kinh tế cần được xem xét, có thể dần được mở rộng sang các lĩnh vực phi kinh tế như văn hóa, môi trường, khoa học công nghệ và giáo dục, trong đó lấy phát triển con người làm trung tâm, là động lực mang tính quyết định các khuôn khổ và cấu trúc hợp tác mới. Nói cách khác, APEC cần góp phần thiết lập khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế mới với một mô thức quản trị mới, một chương trình nghị sự mới và một kiến trúc hợp tác mới.
Trong khuôn khổ APEC, sự trỗi dậy của một số nền kinh tế APEC không nên là sự đe dọa mà nên là những cơ hội cho xây dựng quan hệ đối tác tốt đẹp, là tấm gương sáng, bài học kinh nghiệm hay cho các quốc gia và nền kinh tế khác trên con đường dẫn tới thành công.
Trong bối cảnh ngày càng có nhiều sáng kiến, diễn đàn, và khuôn khổ hợp tác kinh tế mới, APEC cần tạo dựng cho mình một bản sắc riêng, một cơ chế nhằm tìm kiếm sự thống nhất cao trong các thành viên APEC. Điều này xuất phát từ giải quyết chưa thành công một số bất đồng, những thách thức về môi trường hay năng lượng… Đứng trước thực tế hiện nay, mọi thành viên APEC cần cùng nhau hợp tác để có những phương thức tiếp cận sáng tạo nhằm thiết lập sự thống nhất trong đa dạng mang tính xây dựng, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Một châu Á-Thái Bình Dương đoàn kết, hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững phải là mục tiêu, trách nhiệm chung, đòi hỏi sự chung tay, kề vai sát cánh của mọi nền kinh tế APEC, dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển ở vành đai Thái Bình Dương.
Những ngày này, Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh và chào đón các nhà lãnh đạo APEC tham dự Tuần lễ cấp cao của Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) tại thành phố Đà Nẵng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam thúc đẩy hơn nữa tiến trình tự do hóa thương mại, đồng thời cũng là dịp để các nền kinh tế thành viên hiểu rõ hơn về con người, môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng, nhân dịp này, bằng sự thông tuệ và tầm nhìn của mình, các nhà Lãnh đạo của 21 nền kinh tế thành viên APEC sẽ đưa ra những giải pháp tối ưu để cùng nhau "tạo động lực mới, vun đắp tương lai chung".đầu trang(

PHÁT NGÔN NÓNG
Cần nhận diện cả hành vi tham nhũng chính sách ​
“Tham nhũng chính sách không mấy khi được nhận diện nhưng tác hại của nó lại khôn lường và đi liền với lợi ích nhóm. Do đó cần bổ sung thêm hành vi nữa là tham nhũng chính sách, lợi dụng chính sách để lũng đoạn. Đây là hành vi rất tinh vi, xảo quyệt và đây mới là hành vi tham nhũng lớn, chứ không còn là tham nhũng vặt”, (Đại biểu Trần Văn Mão kiến nghị tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) chiều 09/11)
Phải xem chống tham nhũng là ‘trận đánh cuối cùng’
“Chống tham nhũng chúng ta nói nhiều rồi, bản thân tôi cũng thế. Khi chúng ta khai báo tài sản, ít nhất chúng ta phải khai báo ba đời, công khai treo ở những nơi công chúng có thể nhìn thấy, dân mới giám sát được. Nói tới cuộc chiến chống tham nhũng, tôi nghĩ đây là trận đánh cuối cùng”. (Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đã nêu quan điểm như thế khi Quốc hội thảo luận tại hội trường về báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2017, ngày 7/11) đầu trang(

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Sở Công Thương Quảng Ninh: Top đầu về cải cách hành chính. Giữ vai trò là "xương sống" cho nền kinh tế tỉnh, những năm qua, Sở Công Thương Quảng Ninh đã quyết tâm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước thông qua cải cách hành chính (CCHC). Nỗ lực của cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động trong năm 2016 đã được ghi nhận ở vị trí thứ 2 về khối các Sở, ngành; đứng thứ 3 về chỉ số nâng cao năng lực cạnh tranh (DDCI) khối Sở, ngành và được UBND tỉnh tặng Bằng khen.
Ngay từ đầu năm, Sở Công Thương đã tích cực triển khai giai đoạn 2 xây dựng Chính quyền điện tử và Trung tâm Hành chính công; hoàn thành số hóa tài liệu, dữ liệu của các phòng chuyên môn, đơn vị. Theo đó, Sở quyết liệt triển khai kế hoạch CCHC tới toàn thể cán bộ chủ chốt. Trên cơ sở đó, các phòng chuyên môn quán triệt tầm quan trọng của công tác CCHC tới từng cán bộ công chức, nhân viên để nghiêm túc thực hiện. Trong tất cả các cuộc họp giao ban hằng tháng, nội dung về CCHC luôn được lãnh đạo Sở yêu cầu các phòng, đơn vị trực thuộc báo cáo. Sở thường xuyên tổ chức cuộc họp chuyên đề về CCHC. Nhờ đó, kết quả thực hiện hàng tháng về CCHC của các phòng chuyên môn, nghiệp vụ, đơn vị trực thuộc luôn được theo dõi, cập nhật, đánh giá, định hướng kịp thời.
Nhằm nâng cao hiệu quả, CCHC được Sở Công Thương xác định là một trong những tiêu chí quan trọng trong thi đua giữa các phòng chuyên môn, nghiệp vụ, đơn vị trực thuộc và cán bộ, công nhân viên, người lao động. Do đó, Sở tăng cường kiểm tra các phòng, ban, đơn vị trực thuộc để kịp thời phát hiện, khắc phục, điều chỉnh những bất cập, đảm bảo thực hiện tốt công tác CCHC.
Xác định hiện đại hóa chính là yếu tố then chốt của công tác CCHC, Sở Công Thương đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, duy trì hoạt động có hiệu quả các phần mềm quản lý văn bản, sử dụng cơ sở dữ liệu phần mềm quản lý văn bản dùng chung cho toàn tỉnh để trao đổi, gửi, nhận, phát hành văn bản.
Nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút các nguồn lực đầu tư, Sở chủ động rà soát, tham mưu, đề xuất UBND tỉnh ban hành các quy định, cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực của ngành. Hiện, Sở đang gấp rút hoàn thiện chính sách nâng cao năng lực hội nhập cho doanh nghiệp; quy hoạch phát triển điện lực tỉnh giai đoạn 2016-2025, có xét đến năm 2035; chính sách khuyến khích xúc tiến thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vào các sản phẩm sản xuất, chế biến. Đồng thời, Sở chủ động triển khai thanh tra, kiểm tra theo chương trình kế hoạch đã được phê duyệt trong các lĩnh vực: Vật liệu nổ công nghiệp; hoạt động khoáng sản; quản lý đầu tư xây dựng lưới điện hạ áp nông thôn...
Song song với đẩy mạnh cải cách TTHC, các nhiệm vụ về cải cách thể chế; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính... Sở đã và đang triển khai đồng bộ với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ tối đa cho các tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Sở cũng thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với tổ chức, doanh nghiệp để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn.
Bằng những giải pháp quyết liệt CCHC, Sở Công Thương tỉnh Quảng Ninh được đánh giá là một trong những Sở, ngành thực hiện tốt CCHC. Đó cũng là lý do giúp Quảng Ninh được đánh giá là một trong những địa phương có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng top đầu cả nước.
Ngành Công Thương Quảng Ninh quyết tâm duy trì xếp hạng chỉ số CCHC năm 2017 và những năm tiếp theo ở top đầu, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút các nguồn lực đầu tư, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. (Công Thương 6/11) đầu trang(
Quyết tâm cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội (QH) khóa XIV, các đại biểu QH đã bàn sâu về nội dung tinh gọn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước (TCBMHCNN) để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Nhiều trăn trở, băn khoăn, lo lắng cũng như ý kiến hiến kế tâm huyết được đặt ra khi tổ chức bộ máy cả hệ thống chính trị chưa chuyển biến tương xứng với đổi mới về kinh tế và nỗ lực xây dựng Chính phủ kiến tạo, phục vụ nhân dân.
Tại phiên thảo luận, Chính phủ đã nhìn nhận nghiêm túc, thẳng thắn trước QH về công tác đổi mới và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Hệ thống pháp luật về cải cách TCBMHCNN chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu thống nhất. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ chậm được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. TCBMHCNN bên trong bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, nhiều tầng nấc. Nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính chưa được thực hiện triệt để, hình thành nhiều cơ quan phối hợp liên ngành, làm phát sinh bộ máy, biên chế.
Ghi nhận ý kiến tại hội trường và trả lời báo chí bên hành lang QH, các đại biểu QH cho rằng, thực trạng TCBMHCNN chưa bao giờ được phân tích, đánh giá một cách thẳng thắn, khách quan với tinh thần phản biện, xây dựng như vậy. Đây là bước tạo đà quan trọng để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết T.Ư 6, khóa XII về đổi mới, sắp xếp hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Yêu cầu cải cách TCBMHCNN cho phù hợp tinh thần kiến tạo, phục vụ là tất yếu, nhưng để đạt mục tiêu này, cần giải quyết một cách cơ bản, căn cơ.
Nhiều đại biểu trăn trở, khi những vấn đề liên quan đến tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đã được bổ sung, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ngày càng rõ, thì cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành, địa phương vẫn chưa đổi mới căn bản để thích ứng theo hướng tinh gọn, tập trung cho công tác quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách, giảm các nội dung mang tính tác nghiệp, quản lý, điều hành trực tiếp.
Thời gian qua, kết quả cải cách, đổi mới, cơ cấu lại TCBMHCNN chưa tương xứng với những đổi mới về kinh tế, chưa đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế và những đòi hỏi của tiến trình hội nhập quốc tế, chưa tạo động lực, “đòn bẩy” thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, còn hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đại biểu Phan Viết Lượng (Bình Phước), cho rằng: “Nhiều cấp ủy đảng, lãnh đạo bộ, ngành, địa phương và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn buông lỏng lãnh đạo, thiếu quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện. Hạn chế ở cấp T.Ư còn nhiều, khó nêu gương, tạo chuyển biến cho địa phương, cơ sở”.
Không ít cơ quan, đơn vị, người đứng đầu còn mang nặng tâm lý trông chờ sự bao cấp của Nhà nước, ngại thay đổi, không thích trao quyền và rất ngại phân cấp, còn cục bộ, chưa vì lợi ích chung, bằng nhiều cách như: chậm ban hành đề án, chậm hướng dẫn triển khai... làm tăng nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế để mang lại lợi ích cho cơ quan, đơn vị, cá nhân mình. Vì vậy, các đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương), Lưu Thành Công (Vĩnh Long) đề xuất, cần coi việc tăng biên chế, phình bộ máy là một dạng tham nhũng để quyết tâm xử lý và thực hiện hiệu quả công cuộc này, đồng thời làm rõ trách nhiệm người đứng đầu đối với yếu kém, hạn chế, kiến nghị xử lý các trường hợp vi phạm cụ thể, nếu không “5 đến 10 năm nữa, việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính vẫn chậm như hiện nay”.
Nhiều đại biểu phản ánh tình trạng kỷ luật công vụ chưa nghiêm, rõ nhất là việc không tuân thủ quy định của Đảng và Nhà nước, để tăng bộ máy, biên chế, số lượng cấp phó, tăng tỷ lệ lãnh đạo, xảy ra nhiều nơi trong thời gian dài, gây bức xúc dư luận nhưng chưa được xem xét, xử lý công khai, nghiêm túc, kịp thời. Các đại biểu đề nghị chấn chỉnh tình trạng này, bằng cách đề cao và phát huy vai trò các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ thức đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng và nhân dân trong việc giám sát tổ chức hoạt động của cơ quan nhà nước, để bảo đảm sứ mệnh phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Đại biểu Phạm Văn Tuân (Thái Bình) và nhiều đại biểu cho rằng, một số chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước không được triển khai nghiêm túc, đồng bộ, chưa đặt trong tổng thể cải cách hành chính cho nên hiệu quả thấp. Trong nhiều nội dung, lĩnh vực, việc ban hành văn bản hướng dẫn đôi khi chưa kịp thời hoặc chưa rõ, trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ. Do đó, cần rà soát, sửa đổi hoàn thiện mô hình TCBMHCNN thống nhất, thực hiện nguyên tắc một tổ chức có thể thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính.
Kiên quyết loại bỏ những tổ chức, những khâu trung gian không cần thiết. Xác định rõ mối quan hệ công tác của các cơ quan chuyên môn tham mưu từ T.Ư đến địa phương. Các đại biểu cũng bày tỏ lo ngại khi chủ trương xã hội hóa và đổi mới, sắp xếp lại khu vực đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chậm, hiệu quả thấp mà chưa có nhiều giải pháp hữu hiệu để xử lý. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phương thức làm việc của bộ máy hành chính chưa gắn kết với yêu cầu tinh gọn, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động...
Cử tri cả nước đánh giá cao việc QH lựa chọn và thảo luận nội dung giám sát này, cho đây là vấn đề thật sự cấp thiết để xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, hướng về cơ sở, vì nhân dân, bảo đảm phù hợp thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những đề xuất, kiến nghị, giải pháp cụ thể sẽ được tiếp thu bằng Nghị quyết mà QH sắp thông qua tại kỳ họp, tạo tiền đề giúp Chính phủ triển khai kịp thời và hiệu quả các Nghị quyết quan trọng của Hội nghị T.Ư 6, khóa XII.
Đại biểu QH và cử tri đề nghị, những việc đã rõ, đã "chín" cần triển khai ngay, những nội dung chưa rõ, quá phức tạp, có ý kiến khác nhau cần được tiếp tục nghiên cứu quyết định sau, làm từng bước chắc chắn, không nóng vội. Đồng thời, coi việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu.
Hà Nội tính bỏ bớt 60 ban chỉ đạo hoạt động không hiệu quả. Thành phố Hà Nội dự kiến, sau giải thể, sáp nhập, số ban chỉ đạo thuộc thành phố từ con số 108 sẽ thu gọn chỉ còn 48.
Theo rà soát của Văn phòng UBND TP Hà Nội, từ năm 2007-2017, UBND TP đã thành lập 302 ban chỉ đạo thuộc thành phố. Tính đến ngày 24-7-2017, còn 108 ban chỉ đạo đang còn hiệu lực hoạt động. Trong đó, lĩnh vực nội chính, quốc phòng - an ninh, tư pháp có 15 ban chỉ đạo; đô thị: 19 ban chỉ đạo; kinh tế: 41 ban chỉ đạo; khoa giáo, văn xã: 33 ban chỉ đạo.
Trong khi đó, theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các lĩnh vực quản lý đều đã được quy định về thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của các cơ quan chuyên môn (sở, ngành). Ban chỉ đạo thành phố chỉ là tổ chức kiêm nhiệm có nhiệm vụ tư vấn cho UBND TP, không có trách nhiệm pháp lý cụ thể. Ngược lại, việc thành lập quá nhiều ban chỉ đạo thành phố có thể làm giảm trách nhiệm tham mưu, quản lý Nhà nước của các cơ quan chuyên môn của UBND TP.
Đáng chú ý, một số ban chỉ đạo hoạt động còn hình thức, hiệu quả không cao, lãng phí nguồn lực, kinh phí, thời gian cho thành viên ban chỉ đạo. Có những việc các cơ quan chuyên môn (sở, ngành) hoàn toàn có thể tự quyết, tự làm, tự chịu trách nhiệm theo thẩm quyền, hoặc tham mưu Chủ tịch, Phó Chủ tịch phụ trách chỉ đạo trực tiếp. Những vấn đề phức tạp, nhạy cảm thì đưa ra cuộc họp Thường trực UBND TP xem xét, chỉ đạo không cần thiết phải qua cơ chế ban chỉ đạo. Ngoài ra, cơ chế hoạt động ban chỉ đạo còn ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc 5 rõ: “rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ trách nhiệm, rõ hiệu quả” và “một việc một đầu mối xuyên suốt”.
Từ thực tế trên, Văn phòng UBND TP Hà Nội đề xuất nguyên tắc: “Chỉ thành lập, giữ lại hoặc kiện toàn các ban chỉ đạo theo yêu cầu của văn bản quy phạm pháp luật (luật, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ) hoặc do yêu cầu thực tiễn của thành phố để chỉ đạo những loại công việc thuộc trách nhiệm của liên ngành; những vấn đề mới phát sinh; những công việc nhạy cảm, phức tạp, cấp bách; những chủ trương đang thực hiện thí điểm... Cùng với đó, thành phố sẽ sáp nhập một số ban chỉ đạo có nhiệm vụ giống nhau và có cùng 1 cơ quan thường trực. Đặc biệt, sẽ đề xuất giải thể các ban chỉ đạo đã hoàn thành nhiệm vụ; những nội dung công việc mang tính chất thường xuyên; những ban chỉ đạo hoạt động kém hiệu quả, hình thức, lãng phí…
Với nguyên tắc thu gọn số lượng ban chỉ đạo nói trên, Văn phòng UBND TP Hà Nội đề xuất giữ nguyên 40 ban chỉ đạo; sáp nhập 27 ban chỉ đạo thành 8 ban chỉ đạo; giải thể 41 ban chỉ đạo. Như vậy, nếu theo phương án đề xuất kiện toàn trên, sẽ tinh gọn từ 108 ban chỉ đạo xuống còn 48.
Tại TP.HCM, câu chuyện thu gọn các ban chỉ đạo thuộc thành phố cũng đang là đề tài nóng. Theo Phó giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM Lê Hoài Trung, TP.HCM có khoảng 200 ban chỉ đạo, ủy ban, tổ công tác, tổ liên ngành, hội đồng. Cùng quan điểm với Văn phòng UBND TP Hà Nội, ông Lê Hoài Trung cho rằng: “Mỗi sở, ngành, quận, huyện nếu làm hết trách nhiệm, phát huy tốt chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành thì không cần lập ban chỉ đạo. Ví dụ, Sở Tài nguyên và Môi trường đã làm hết chức năng thì đâu cần lập ban chỉ đạo liên quan thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng làm gì...”.
Cho biết quá nhiều ban chỉ đạo gây lãng phí thời gian, nguồn lực, tiền của (gần 200 ban đang tồn tại nhưng chỉ khoảng 20 ban hoạt động hiệu quả), ông Lê Hoài Trung thông tin: “Lãnh đạo TP.HCM đã chấp thuận chủ trương giải thể bớt ban chỉ đạo theo đề xuất của Sở Nội vụ”.
“Trong lộ trình cải cách hành chính, khả năng bỏ là cao. Xu hướng này là để nâng cao trách nhiệm, vai trò của người đứng đầu sở, ngành, quận, huyện. Ngoài ra, TP.HCM đang dần mở rộng áp dụng các chương trình liên thông điện tử thì không cần ban chỉ đạo nữa. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn trong giai đoạn thống kê, còn việc duy trì hay bỏ ban nào cụ thể sẽ do Thường trực UBND TP.HCM quyết định” - ông Lê Hoài Trung chia sẻ.
Ngành Hải quan tỉnh Quảng Ninh: Rút ngắn thời gian thông quan. Trong nhiều năm qua, Cục Hải quan Quảng Ninh luôn là điểm sáng về cải cách thủ tục hành chính, thu ngân sách, chống buôn lậu, gian lận thương mại của toàn ngành hải quan. Cải cách hành chính (CCHC) cũng là mục tiêu hàng đầu của Cục trong thời gian tới nhằm đồng hành, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Những năm vừa qua, song song với hoạt động chuyên môn, một trong những mục tiêu được Cục Hải quan Quảng Ninh chú trọng thực hiện là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đồng hành cùng doanh nghiệp (DN), tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK).
Kết quả, đến nay, 100% tờ khai được thực hiện thông quan điện tử, thu thuế điện tử đạt tốp đầu toàn ngành hải quan với tỷ lệ 97,5%. Thời gian thông quan/giải phóng hàng XNK tại Quảng Ninh đều nhanh hơn so với chỉ tiêu ngành hải quan đề ra (hàng xuất khẩu (XK) là 21 giờ 34 phút/39 giờ; nhập khẩu (NK) là 39 giờ 50 phút/41 giờ). Thời gian thông quan đối với lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành cũng giảm rõ rệt (năm 2015: 339 giờ, năm 2016: 308 giờ).
Năm 2017 cũng ghi nhận sự thay đổi tích cực từ thụ động sang chủ động. Theo đó, đơn vị đã chủ động đến tận trụ sở, làm việc trực tiếp với 42 DN có hoạt động XNK trên địa bàn để ghi nhận và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của DN. Đồng thời, chủ động triển khai sáng kiến xây dựng Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh áp dụng với 7 chi cục hải quan cửa khẩu (CDCI) năm 2017 và các năm tiếp theo, nhằm tạo động lực thi đua hoàn thành nhiệm vụ giữa các đơn vị trực thuộc.
Tiếp nối những thành công trên, kế hoạch cải cách, phát triển, hiện đại hóa đến năm 2020 đã được Hải quan Quảng Ninh xây dựng mục tiêu cụ thể cho 10 lĩnh vực công tác, đáng chú ý là triển khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử “mọi nơi - mọi lúc - mọi phương tiện”.
Hướng đến năm 2020, rút ngắn thời gian thông quan, giải phóng hàng hóa, chỉ còn dưới 36 giờ đối với XK, 41 giờ đối với NK; 100% thủ tục hành chính liên quan đến công tác quản lý nhà nước về hải quan được triển khai theo mô hình dịch vụ công trực tuyến; 100% chi cục hải quan cảng biển, đường bộ quốc tế, cửa khẩu chính thuộc Cục Hải quan Quảng Ninh được trang bị hệ thống soi chiếu hành lý, hệ thống giám sát bằng camera và các thiết bị hỗ trợ; 100% các khoản thuế, phí, lệ phí liên quan đến hoạt động XNK được thực hiện thanh toán bằng phương thức điện tử trên Cổng thông tin một cửa quốc gia; 80% các nội dung liên quan đến việc quản lý, điều hành, quản trị các hoạt động nội bộ được thực hiện trên môi trường điện tử...
Để đạt được các chỉ tiêu nói trên, Hải quan Quảng Ninh đã đề ra 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, sẽ tiếp tục triển khai, phát triển mô hình thông quan điện tử trên cơ sở tích hợp các hệ thống phần mềm quản lý nghiệp vụ. Đồng thời, duy trì xu hướng giảm tỷ lệ kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải quan; áp dụng sâu rộng kỹ thuật quản lý rủi ro trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ; tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan, kiểm soát phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; từng bước đổi mới cơ bản phương thức quản lý nguồn nhân lực theo năng lực; kiện toàn, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và đẩy mạnh quan hệ đối tác hải quan - DN. đầu trang(

MÔ HÌNH - KINH NGHIỆM
Quảng Ninh: Cách làm hay của Móng Cái. Với quyết tâm “Một lần hướng dẫn, kiểm tra tiếp nhận; một lần thẩm định, phê duyệt và trả kết quả đúng hẹn”, đến nay, công tác cải cách hành chính (CCHC) tại Móng Cái đã góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho tổ chức, công dân và doanh nghiệp khi đến giao dịch, làm việc tại huyện.
Nâng cao hiệu quả CCHC, phục vụ tốt nhất cho người dân, hiện nay, những chính sách liên quan mật thiết, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân đều được UBND TP. Móng Cái thực hiện niêm yết công khai. Danh mục, thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện, xã đối với hộ nghèo, người có công và đối tượng bảo trợ xã hội được công khai tại nơi tiếp công dân, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại cấp xã, hội trường UBND xã, hội trường nhà văn hóa thôn, khu phố để người dân biết, tham gia ý kiến về các nội dung liên quan.
Nhờ cách làm công khai, minh bạch đó mà công tác CCHC tại TP. Móng Cái được đánh giá là có những chuyển biến tích cực theo từng năm. Cụ thể: Năm 2014 đạt 76,5 điểm (Loại khá), năm 2015 đạt 78,25 điểm (Loại khá), năm  2016 đạt 80,22 điểm (Loại tốt). Chỉ số cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh (DDCI) được đánh giá tương đối tốt: Năm 2015 xếp thứ 2/6 địa phương được khảo sát với tổng số 75,75 điểm, năm 2016 xếp thứ 4/14 địa phương với tổng số 55,69 điểm.
UBND TP. Móng Cái cũng thường xuyên tổ chức giao ban, đối thoại (cấp huyện 1 lần/quý, cấp xã 1 lần/tháng) với người dân nhằm trao đổi thông tin, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời chỉ đạo giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm. Đồng thời, thông qua hội nghị giao ban để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền. Điều này đã góp phần làm thay đổi cung cách phục vụ người dân của các cơ quan hành chính nhà nước.
Nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC, TP. Móng Cái là một trong 2 địa phương đầu tiên của tỉnh triển khai mô hình Trung tâm Hành chính công (HCC). Đây được xem là bước đột phá về công tác CCHC và hiện đại hóa nền hành chính. Sau gần 4 năm đi vào hoạt động, với sự đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại và đội ngũ cán bộ chuyên môn, Trung tâm HCC TP. Móng Cái đã phát huy hiệu quả hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, người dân trong giải quyết các TTHC. Thành phố đã hoàn thành việc cài đặt, tiếp nhận, giải quyết bộ TTHC cấp xã trên phần mềm “Một cửa điện tử” và TTHC liên thông 2 cấp - vượt trước một quý so với kế hoạch đề ra...
Công tác kiểm soát, chuẩn hóa và lựa chọn TTHC đưa vào giải quyết tại Trung tâm được thực hiện thường xuyên theo phương châm “Rõ người, rõ việc, rõ thời gian hoàn thành”. TTHC giải quyết tại Trung tâm được xây dựng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 và thực hiện theo nguyên tắc “Tiếp nhận, thẩm định và phê duyệt tại Trung tâm”. Đặc biệt, từ khi triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đến nay, thành phố đã rà soát và tiếp nhận phần lớn lượng hồ sơ thông qua mạng internet thực hiện theo dịch vụ công trực tuyến mức độ 3.
Ông Nguyễn Đức Tuân - Phó Giám đốc Trung tâm HCC TP. Móng Cái - cho biết: Những TTHC đang áp dụng giải quyết tại Trung tâm được niêm yết, công khai theo quy định và trên cổng thông tin thành phần nhằm phục vụ việc tìm hiểu, tra cứu thông tin của tổ chức, người dân, doanh nghiệp. Có thể khẳng định, các TTHC tiếp nhận tại Trung tâm HCC TP. Móng Cái luôn đảm bảo nguyên tắc thuận lợi, nhanh gọn, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho tổ chức, người dân và  doanh nghiệp.
Khát vọng đem công​ ​nghiệp tri thức​ phát triển đặc khu kinh tế Vân Đồn – Quảng Ninh. Trong ba dự án Đặc khu kinh tế đang được nhà nước thực hiện, Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, đặc khu Vân Đồn có rất nhiều lợi thế địa phương cộng với học hỏi kinh nghiệm quốc tế, hứa hẹn sẽ là một mô hình đầy tiềm năng tại Việt Nam.
Mô hình ĐKKT hành chính, khởi đầu từ những năm 1980 với ĐK Thâm Quyến, ngày nay đã được nhân rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới như  Ấn độ, Mexico, Hàn Quốc, Châu Phi... Xây dựng đặc khu kinh tế tại Việt Nam hiện nay là một giải pháp tốt cho nền kinh tế, nhất là khi các khu công nghiệp bắt đầu thể hiện những hạn chế.
Trong ba dự án ĐKKT đang được nhà nước thực hiện, Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, đặc khu Vân Đồn có rất nhiều lợi thế địa phương cộng với học hỏi kinh nghiệm quốc tế, hứa hẹn sẽ là một mô hình đầy tiềm năng tại Việt Nam.
Từ mô hình đầu tiên vào năm 1980 đến nay, ngành công nghiệp thế giới đã có rất nhiều sự thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của các mô hình ĐKKT. Hiện nay ngành Công nghệ thông tin trên thế giới đang có sự chuyển mình quan trọng với sự vươn lên của Trí tuệ nhân tạo, sử dụng Vạn vật kết nối (IoT), khai thác Dữ liệu lớn (Big Data) và Điện toán đám mây (Cloud).
Đây là ngành công nghệ có giá trị thặng dư lớn, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Công nghệ thông tin cùng với các công nghệ khác như công nghệ In 3D, công nghệ vật liệu mới, công nghiệp Robots ... đang tạo thành một cuộc cách mạng lần thứ 4 cho ngành công nghiệp thế giới : Công nghiệp tri thức.
Do đó việc xây dựng, sử dụng và phát triển ngành CNTT trong Vân Đồn là điều kiện quyết định sự thành công. Có rất nhiều hệ thống CNTT có tiềm năng phát triển cho ĐKKT Vân Đồn:
Dịch vụ Công: Các giải pháp CNTT phát triển Chính phủ điện tử, quản trị thành phố; Các hệ thống trí tuệ nhân tạo Smart city quản lý giao thông, phương tiện, an ninh, năng lượng, nước…
Dịch vụ Hỗ trợ: các giải pháp CNTT hỗ trợ các ngành kinh tế khác của ĐKKT: hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, du lịch, kết nối người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ… và rất nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác nữa như chăm sóc sức khỏe, logistics, vận tải, hàng không, vũ trụ…Sử dụng các hệ thống CNTT trong quản lý ĐK và hỗ trợ các ngành công nghiệp khác
Trong giai đoạn đầu tiên, Vân Đồn cần phát triển các dịch vụ công vừa nhằm giải quyết bài toán xây dựng cơ bản, vừa tạo lập một hệ thống hành chính công tối ưu có thể chịu được áp lực lớn của sự phát triển nhanh chóng ở Vân Đồn, với những chi phí lâu dài thấp nhất và dịch vụ tốt nhất. Với lợi thế đi sau, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng các tài nguyên có sẵn giúp giảm chi phí và thời gian thực hiện.
Hệ thống chính phủ điện tử trong Đặc khu hành chính sẽ giúp minh bạch hóa thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí công. Lợi ích lớn hơn là tăng sự tin tưởng của người dân và doanh nghiệp vào bộ máy hành chính, chính quyền.
Hệ thống trí tuệ nhân tạo phân tích hình ảnh âm thanh kết hợp với IoTs sẽ tăng cường an toàn, giảm tội phạm, tăng cường kiểm soát về người và vật, hỗ trợ xử lý các tai nạn, sự cố như cháy nổ v.v..
Trên thế giới, sự thành công của chính phủ điện tử đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu. Các hệ thống trí tuệ nhân tạo, hệ chuyên gia, các công nghệ Smart City đang phát triển hàng ngày với những quốc gia tiên phong như Mỹ, Nhật, TQ, Châu Âu và các thành phố thông minh trên khắp thế giới , có thể kể đến:
- Thành phố Redwood City, Calif. với hệ thống bãi đỗ xe thông minh và hệ thông quản lý nước tự động
- Thành phố Amsterdam đang thử nghiêm với hệ thống tiết kiệm năng lương các tòa nhà, hệ thống quản lý đèn đường tự động
- Thành phố Madrid hợp tác với IBM để thực hiện các giải pháp tự động cho các vấn đề xã hội...
Đồng thời, các dịch vụ hỗ trợ cũng cần được phát triển tùy theo nhu cầu của các ngành kinh tế khác, nhất là ngành du lịch, nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển mạnh mẽ, bài bản và đồng bộ hơn. Các dịch vụ hỗ trợ cũng góp phần vào việc quảng bá Vân Đồn không chỉ đến người dân Việt nam mà còn ra thế giới, giúp thay đổi hình ảnh của Vân Đồn-Việt nam.
Với kế hoạch 5 năm, chúng ta hoàn toàn có thể hoàn thành hạ tầng CNTT, xây dựng một nền hành chính công và dịch vụ điện tử cho Vân Đồn, hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển, biến Vân Đồn thành một thành phố thông minh.
CNTT đã, đang và vẫn sẽ là một ngành kinh tế mạnh, mang lại giá trị thặng dư lớn, đồng thời cũng là một ngành kinh tế xanh, sạch và bền vững giúp bảo tồn được môi trường và tài nguyên của Vân Đồn.
Trong thế giới phát triển theo công nghệ hiện đại, hơn một nửa dân số thế giới sống trong thành phố-đô thị, mỗi tuần có thêm 1,5 triệu cư dân thành thị. Theo ước tính của PwC, trong 10 năm tới, thế giới sẽ đầu tư 78.000 tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng và 85% GDP trên thế giới được tạo ra từ các thành phố-đô thị.
Hiện tại có khoảng 200 thành phố được coi là đô thị thông minh, trên tổng số 5000 thành phố tiềm năng (vừa và lớn, với trên 150.000 dân). Đó là một thị trường rất lớn ứng dụng CNTT trong quản lý, giao thông, năng lượng, điều tiết, tương tác… (PwC – Megatrends & Rapid Urbanisation & Smart Cities growing new markets Report- Michael Sullivan (2017)).
Đối với Vân Đồn, sau thời kỳ đầu phát triển Dịch vụ công và Dịch vụ hỗ trợ, sẽ tích lũy được các kinh nghiệm nhất định về CNTT, và trở thành một ĐKKT ứng dụng nhiều CNTT. Vân Đồn có thể thu hút được các chuyên gia tài năng, sự đầu tư và hợp tác của các công ty công nghệ hàng đầu trên thế giới, song song đó là sự phát triển mạnh mẽ của các công ty công nghệ địa phương.
Với yếu tố nhân lực được cải thiện, văn hóa công nghệ được hình thành, cùng với các chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực, chúng ta có thể bước vào giai đoạn kế tiếp (2024-2030): phát triển CNTT thành một ngành kinh tế mũi nhọn cho Vân Đồn phục vụ khách hàng trong cả nước cũng như trên thế giới.
Hình ảnh Vân Đồn là một Smart City đầu tiên của Việt Nam sẽ được tạo dựng, từ một Vân Đồn với nền kinh tế chính là khai thác tài nguyên (than, khoáng sản, ngư nghiệp) sẽ trở thành  một Vân Đồn thông minh, xanh, sạch và bền vững.
Phát triển CNTT thành một ngành kinh tế mũi nhọn: bao gồm các thành phần như:
1) Gia công phần mềm, sản xuất linh kiện.
2) Nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghệ AI+BigData+IoTs thông qua các start-ups, vườn ươm công nghệ.
3) Ứng dụng công nghiệp 4.0.
4) Nghiên cứu và phát triển R&D và cao hơn nữa là Nghiên cứu và Sáng tạo R&I thông qua các trung tâm nghiên cứu và các công ty công nghệ.
Để thực hiện được điều này, sự ủng hộ của Chính phủ là không thể thiếu. Với các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các công ty Công nghệ lớn đến đầu tư; thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao kết hợp với đào tạo tại chỗ; đơn giản hóa thủ tục visa cho các cá nhân đến học tập và làm việc trong các lĩnh vực liên quan; kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, Vân Đồn sẽ nhanh chóng đáp ứng được nguồn lực, phát triển mạnh trong giai đoạn 2 và 3, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách.
Đặc khu kinh tế Vân Đồn hứa hẹn sẽ là một trung tâm kinh tế đầy tiềm năng của VN trong tương lai. Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin tưởng rằng với những chính sách đầu tư hợp lý đúng đắn, Vân Đồn sẽ sớm trở thành một “Hub" công nghệ trong khu vực và trong một tương lai không xa có thể cạnh tranh trên toàn thế giới ra thế giới.
Đặc khu kinh tế: Cú hích thị trường bất động sản. Chủ trương xây dựng các đặc khu kinh tế của Chính phủ được kỳ vọng sẽ tạo sự bứt phá cho nền kinh tế. Đặc biệt, riêng với thị trường bất động sản, giới chuyên gia nhìn nhận, đây sẽ là một cú hích mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực bất động sản du lịch nghỉ dưỡng.
Trong Dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, một trong những ngành nghề được ưu tiên tại đặc khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh) và Phú Quốc (Kiên Giang) là lĩnh vực bất động sản.
Theo đó, với đặc khu kinh tế Vân Đồn, Chính phủ định hướng nơi đây sẽ trở thành đô thị du lịch sinh thái biển – đảo chất lượng cao còn với đặc khu kinh tế Phú Quốc sẽ là một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, dịch vụ thương mại và mua sắm quốc tế.
Riêng với đặc khu Bắc Vân Phong, dù định hướng chủ yếu phát triển về cảng biển nước sâu, dịch vụ logistics cảng biển quốc tế theo thế mạnh của khu vực này, song những lĩnh vực như dịch vụ, du lịch và vui chơi giải trí cũng sẽ được ưu tiên phát triển.
Theo ông Trần Duy Đông, Vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp này – PV), nhiều chính sách ưu đãi được đưa ra nhằm thu hút đầu tư, trong đó có các chính sách và thủ tục đầu tư kinh doanh; chính sách về tiếp cận đất đai, thế chấp tài sản trên đất và sỡ hữu nhà ở; chính sách ưu đãi đầu tư về thuế, tiền thuê đất…
Trong đó các thủ tục đầu tư kinh doanh, thủ tục có liên quan đến đất đai, xây dựng, môi trường, xuất nhập khẩu, hải quan, lao động… được giải quyết đơn giản, nhanh gọn, tại chỗ, tại trung tâm hành chính công, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư...
Riêng đối với chính sách về tiếp cận đất đai, thế chấp tài sản trên đất và sở hữu nhà ở, ông Đông nhấn mạnh: Dự thảo Luật cũng đề xuất cho phép thời hạn sử dụng đất tối đa là 99 năm đối với các dự án đầu tư khu hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát triển y tế, giáo dục, dự án đầu tư thuộc ngành nghề ưu tiên phát triển của các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt và dự án đầu tư của nhà đầu tư chiến lược....
Ngoài những ưu đãi nói trên, Nhà nước còn miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa cho cả thời gian thuê đối với các dự án BĐS nghỉ dưỡng đảm bảo tiêu chí là các dự án khách sạn, khu du lịch sinh thái, khu nghỉ dưỡng cao cấp từ 4 sao trở lên; du lịch văn hóa có vốn đầu tư tối thiểu 110 tỷ đồng, dịch vụ, du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp có casino, vốn đầu tư tối thiểu là 44.000 tỷ đồng.
Giới chuyên gia nhận định, với những ưu đãi riêng dành cho 3 đặc khu kinh tế, tới đây, lượng khách du lịch trong nước và quốc tế sẽ gia tăng đột biến và đây sẽ là cơ hội lớn để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đổ vốn vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản nghỉ dưỡng.
Đây là xu thế tất yếu và điều này buộc, Việt Nam phải đưa ra thể chế  đủ sức hấp dẫn, đủ sức cạnh tranh với các khu khác trên thế giới.
Đơn cử như Phú Quốc (Kiên Giang), chỉ mới vài năm trở lại đây, Phú Quốc đã nổi lên như một hiện tượng về đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng với 193 dự án, tổng vốn khoảng gần 216.000 tỷ đồng đã được cấp phép và chấp nhận chủ trương đầu tư.
Trong đó, có 30 dự án, với tổng vốn đầu tư hơn 49.000 tỷ đồng đã đi vào hoạt động và 24 dự án, tổng vốn 104.000 tỷ đồng đang triển khai xây dựng…
Đánh giá về cơ hội mới cho lĩnh vực bất động sản tại các đặc khu kinh tế, ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh cho rằng, trên thực tế, Việt Nam rất giàu tiềm năng về bất động sản nghỉ dưỡng do có lợi thế hơn 3.200km đường bờ biển.
Khi các đặc khu kinh tế được hình thành, những lợi thế này còn được đẩy mạnh hơn nữa. Các nhà đầu tư rất chờ đợi  Dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế với những chính sách mới cởi mở hơn cho các nhà đầu tư.
Dự án Luật này chắc chắn sẽ tạo một cú hích mạnh mẽ cho lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là các dự án bất động sản nghỉ dưỡng.
Theo ông Nguyễn Văn Đực, Phó Tổng Giám đốc Công ty bất động sản Địa ốc Đất Lành, phát triển đặc khu kinh tế sẽ tạo đà cho mọi lĩnh vực kinh tế trong đó có lĩnh vực bất động sản do luật lệ sẽ thông thoáng hơn, cho phép người nước ngoài ở lâu dài, miễn visa… Từ đó sẽ tạo sự hấp dẫn về bất động sản nhà ở, kéo theo bất động sản về du lịch và nghỉ dưỡng.
“Chính sách, cơ chế phải thực sự ổn định và thông thoáng thì doanh nghiệp mới an tâm đầu tư lầu dài, kỳ vọng dòng tiền của mình được sinh lời mà không bị những yếu tố khác tác động” – ông Đực nhấn mạnh.
Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2020. Bộ Chính trị vừa có Kết luận về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2020.
Sau khi đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, khuyết điểm sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, Bộ Chính trị yêu cầu Thành ủy Hà Nội, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn và đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy có liên quan tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc sáu nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị đã xác định, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ 16 Đảng bộ TP Hà Nội, tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò đầu não, đặc biệt quan trọng của Thủ đô nghìn năm văn hiến, anh hùng, hòa bình, hữu nghị, coi đây là sức mạnh, động lực tinh thần to lớn để phát triển tầm vóc Thủ đô trong thời gian tới. .
Thực hiện tốt chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế; thực hiện đồng bộ ba đột phá chiến lược; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; phát triển đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng; đi đầu trong việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy mọi khả năng và tiềm lực của các thành phần kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh doanh hướng tới các chuẩn mực của OECD; phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm từ 7,5% trở lên. Giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý các cơ quan chính quyền theo hướng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tăng cường công tác quản lý đô thị, trật tự xây dựng, đất đai, dân cư, an toàn giao thông, bảo đảm kỷ cương và văn minh đô thị. Thực hiện nghiêm túc việc di dời và sử dụng quỹ đất sau khi di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, bệnh viện, cơ sở giáo dục đại học, dạy nghề và các cơ quan, đơn vị trong khu vực nội thành. Giải quyết tốt hơn những vấn đề dân sinh bức xúc. Tăng cường quản lý, bảo vệ môi trường sinh thái xanh, sạch, đẹp trên địa bàn Thủ đô.
Tập trung xây dựng nền văn hóa Hà Nội trên cơ sở phát huy truyền thống nghìn năm văn hiến, đậm đà bản sắc gắn với tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh với những giá trị nhân văn sâu sắc; để văn hóa và con người Hà Nội thật sự trở thành giá trị tinh thần to lớn, nguồn lực quan trọng của Thủ đô cũng như của cả nước.
Là địa bàn trọng điểm về an ninh quốc gia, Thủ đô tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang tinh nhuệ, chính quy, từng bước hiện đại, cùng toàn dân giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân; bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, các sự kiện của quốc gia và quốc tế. Chủ động nắm và xử lý tình hình, không để bất ngờ, kiên quyết không để hình thành các hội, nhóm cơ hội chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Thủ đô là biểu tượng của đất nước, cần phải cùng cả nước, thay mặt cả nước làm tốt công tác đối ngoại; xây dựng hình ảnh tốt đẹp của người Hà Nội trước bạn bè quốc tế; mở rộng giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, phòng, chống tội phạm; bảo vệ tốt và tranh thủ có hiệu quả các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế đóng trên địa bàn. Mở rộng quan hệ phối hợp với các cơ quan Trung ương và liên kết, hợp tác với các tỉnh ủy, thành ủy.
Đặc biệt chú trọng thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị của thành phố trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; kiên quyết phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác trong cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng bộ.
Bộ Chính trị đồng ý với các kiến nghị của Thành ủy Hà Nội, giao các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tích cực phối hợp Hà Nội tổ chức thực hiện. Trước hết thực hiện kịp thời và hiệu quả một số nội dung: Sửa đổi một số luật có liên quan và bố trí kinh phí hỗ trợ để TP Hà Nội thực hiện các dự án trọng điểm, quan trọng trên địa bàn; sửa đổi một số nghị định có liên quan; xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù; ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về quy hoạch, kiến trúc; phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng nghề; quy chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô; tăng cường phân cấp hoặc ủy quyền cho TP Hà Nội phê duyệt quy hoạch và các dự án đầu tư, phê duyệt đề án vị trí việc làm. Đồng ý để TP Hà Nội triển khai thí điểm quản lý theo mô hình chính quyền đô thị trong khu vực các quận; tiếp tục củng cố chính quyền nông thôn theo quy định của pháp luật.
Văn phòng T.Ư Đảng theo dõi, đôn đốc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 11; giúp Ban Bí thư định kỳ làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội về thực hiện Nghị quyết số 11 và Kết luận này; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị về kết quả thực hiện. Bộ Chính trị tiến hành tổng kết Nghị quyết số 11 vào cuối năm 2020. đầu trang(

TRÁI KHOÁY
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí bày tỏ như vậy khi dẫn chứng trường hợp cụ thể tại phiên thảo luận về dự thảo Luật PCTN sửa đổi.
Thảo luận tại tổ về dự luật Phòng chống tham nhũng (PCTN) sửa đổi vừa trình Quốc hội chiều 9/11, đại biểu Ngọ Duy Hiểu (đoàn Hà Nội) đề nghị giữ nguyên diện đối tượng phải kê khai như hiện hành hoặc thu hẹp vào nhóm cán bộ cấp cao.
Đại biểu cũng chia sẻ, trong khảo sát, lập bản đồ cảm nhận tham nhũng, yếu tố thường được quan tâm là khu vực có nguy cơ tham nhũng cao. Trên thực tế, một ông cán bộ địa chính phường có khả năng tham nhũng cao hơn cả một Vụ trưởng, Vụ phó nếu lĩnh vực quản lý của người này không liên quan trực tiếp đến giữ tiền, phân bổ nguồn lực. Vì vậy nên mới có chuyện, một công chức địa chính xã có thể có đến 4-5 cái nhà là không lạ!
Vị đại biểu đoàn Hà Nội cũng cho rằng có nghịch lý khi chỉ buộc kê tài sản với con chưa thành niên – đối tượng vẫn phải sống phụ thuộc, trong khi con đã thành niên lại có rất nhiều khả năng để “tiếp tay” cho việc tẩu tán tài sản tham nhũng mà lại không phải kê khai. Do đó, việc mở rộng diện đối tượng trong trường hợp này chính là để theo dõi sự biến động tài sản của cán bộ.
Ông Ngọ Duy Hiểu cũng mong muốn có quy định để cán bộ công chức phải tiếp tục kê khai tài sản trong thời gian 5 năm sau khi về hưu như một giải pháp để ngăn chặn, tương tự như quy định cấm quản lý doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý của cán bộ sau thời gian đảm nhiệm chức vụ. Bởi thực tế đã có nhiều trường hợp cán bộ về hưu rồi tự nhiên xuất hiện biệt phủ nguy nga.
Đại biểu Nguyễn Quang Tuấn (đoàn Hà Nội) cũng băn khoăn về quy định kê khai tài sản của người thân của cán bộ. Như vụ VN Pharma vừa qua, khi lãnh đạo Bộ Y tế vừa khẳng định không có người thân tham gia doanh nghiệp thì lại có thông tin cho thấy có em chồng của lãnh đạo tham gia. Việc này dù có được giải thích thì cũng đã tạo ra dư luận không tốt. Do đó phải đưa vào quy định việc phải kê khai với cả bố mẹ, vợ chồng, con, anh chị em ruột và anh chị em vợ/chồng.
Đồng tình với những quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Hà Nội) dẫn trường hợp “biệt phủ” tại TPHCM mà dư luận phản ánh, đồng thời nhấn mạnh: “Biệt phủ” đứng tên sở hữu của con gái cán bộ. Nhưng con gái mới 19 tuổi đã có biệt phủ nguy nga như vậy thì thật là kỳ lạ. Trường hợp này dễ thấy điểm bất thường ở đây”.
Đại tá Huỳnh Thanh Liêm (đoàn Đồng Nai) bày tỏ tâm huyết với phát biểu của đại biểu Dương Trung Quốc và Sùng Thìn Cò trên hội trường trong phiên thảo luận về báo cáo công tác phòng chống tham nhũng năm 2017. Khi đó, Đại biểu Dương Trung Quốc đã nhấn mạnh chống “giặc nội xâm” liên quan tới sự tồn vong của chế độ, của đảng cầm quyền. Còn đại biểu Sùng Thìn Cò thì khẳng định “tài sản lớn nhất của Đảng, của Nhà nước là lòng dân”.
“Hai câu phát biểu tuy có khác nhau nhưng chung mục đích là phải phòng chống được tham nhũng. Và cũng từ thực tế, Đảng ta đã đặt vấn đề phòng chống tham nhũng lên hàng đầu, có nhiều giải pháp quyết liệt và phòng, chống được tham nhũng thì lòng dân mới an, dân mới tin Đảng” – vị đại tá quân đội nói.
Cũng nhấn mạnh điểm này liên quan đến xây dựng lòng tin, đại biểu Bùi Văn Phương – Phó  trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình kiến nghị cần thiết thì lấy ý kiến nhân dân.
“Kê khai tài sản này kia chỉ là cái vỏ, vấn đề gốc là cái gì, tham nhũng chỗ nào? Các dự án đầu tư, quy hoạch, tài chính, đấu giá... đều yêu cầu công khai nhưng khi thực thi có được mấy chỗ công khai đâu? Nên dân, cơ quan tổ chức biết gì mà giám sát?” – đại biểu Phương đặt vấn đề.
Theo ông Bùi Văn Phương, chuyện cấu kết với nhau từ “chạy” dự án đến quyết toán là khép kín và “phần trăm, phần nghìn” cũng chia từ đây mà ra, cán bộ công chức nhũng nhiễu cũng qua dự án. Số tiền đầu tư vào dự án mấy chục phần trăm, còn mấy chục phần trăm ra ngoài, doanh nghiệp trở nên giàu có, rồi người cấp, người duyệt dự án cũng hưởng lợi. Chính vì vai trò giám sát của tổ chức, người dân không đảm bảo.
“Nói rằng công khai thì dân biết gì về chuyên môn? Tôi nói nhiều lần là 99 người không biết nhưng có 1 người biết. Công bố dự án ra bằng này tiền, tác động về kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh như thế nào để cho người dân tham gia, người dân mới biết có hợp lý hay không” – ông Phương phân tích.
Đại biểu Nguyễn Công Hồng – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp lưu ý, đừng kỳ vọng luật này ra đời có thể phòng chống được tham nhũng nếu không triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Kể cả luật hiện hành mà thực hiện triệt để, nghiêm túc thì tình hình đã khác.
“Luật tốt ra mà triển khai thực hiện không đến nơi đến chốn thì cũng không có kết quả. Nước ngoài đánh giá luật của ta tốt nhưng ta không bằng họ là do khâu thực hiện chưa tốt” – ông Nguyễn Công Hồng nói. (Đài Tiếng Nói Việt Nam 10/11) đầu trang(

NHÌN RA THẾ GIỚI
Ả Rập Xê Út: Bài trừ tham nhũng ở thượng tầng, loạt bộ trưởng bị bắt. Theo tin đầu tiên, 11 hoàng tử, 4 bộ trưởng đang tại chức và nhiều chục cựu bộ trưởng bị bắt vào tối thứ Bảy 4/11/2017, RFI đưa tin.
Một cuộc thanh trừng đang diễn ra tại vương quốc dầu hỏa Ả Rập Xê Út. Vài giờ sau khi ủy ban chống tham nhũng được thành lập, hàng chục quan chức có thế lực bị tống giam. Theo tin đầu tiên, 11 hoàng tử, 4 bộ trưởng đang tại chức và nhiều chục cựu bộ trưởng bị bắt vào tối thứ Bảy 4/11/2017, RFI đưa tin.
Theo truyền thông Ả Rập Xê Út, chiến dịch trong sạch hóa guồng máy vương triều được tiến hành nhanh chóng. An ninh tung lưới tóm gọn: Phi cơ riêng bị cấm bay, không một đại gia hay hoàng tử nào có thể trốn ra nước ngoài. Trong số những nhân vật nặng ký bị bắt có hoàng tử al Walid ben Talal, nhà tỷ phú doanh nhân đầy thế lực và hoàng tử Miteb ben Abdalla, bộ trưởng kinh tế.
Vài giờ trước, Ryad thông báo thành lập xong ủy ban chống tham nhũng với nhiệm vụ trừng phạt những kẻ dựa vào thế lực để biển thủ công quỹ. Theo giới phân tích, dường như người chủ động là thái tử nối ngôi Mohammed ben Salman, đang dọn đường kế nghiệp vua cha 81 tuổi.
Được mệnh danh là MBS, thái tử Mohammed ben Salman, với vai trò phó thủ tướng đã tiến hành nhiều cuộc cải cách trong vương quốc bảo thủ này, gần đây nhất là cho phép phụ nữ lái xe một mình.
Mohammed ben Salman muốn áp đặt nhãn quan của một nhà lãnh đạo trẻ 32 tuổi trên mọi lĩnh vực, dù phải loại trừ những tiếng nói khác biệt trong hoàng gia./. đầu trang(